MỘNG VÀ THỰC KHÔNG DỄ PHÂN BIỆT

Đa số mọi người chúng ta đều cho rằng sự phân biệt giữa mộng và thực không khó. Dễ quá mà ! Mộng thì chỉ là ảo tưởng. Còn thực thì sờ mó nắm bắt được, ngửi nếm ăn uống được, tiêu hóa tăng trưởng được. Tuyệt đại đa số chúng ta đều cho là như thế, không mảy may nghi ngờ. Song không phải tất cả đều nghĩ như vậy. Có những nhà triết học như Trang Tử hay nhà khoa học như Descartes không nghĩ như vậy. Một số triết gia theo trường phái hoài nghi (philosophical scepticism) cũng không nghĩ như vậy.

Pyrrho người xứ Elis (hay Eleia, vùng đất phía nam của Hy Lạp ngày nay) cho rằng người ta chỉ sống trong thế giới hiện tượng không thể khẳng định đâu là chân lý. Descartes, nhà toán học và triết học Pháp thế kỷ 18, hoài nghi rằng không thể phân biệt được đâu là giấc mơ, đâu là sự thật. Vô tình, sự hoài nghi của Descartes rất giống với hoài nghi của Trang Chu, triết gia Trung Quốc cổ đại, nổi tiếng với giấc mơ hồ điệp. Ông không thể khẳng định mình là Trang Chu nằm mơ thấy mình hoá thành con bướm hay mình là con bướm nằm mơ thấy hoá thành Trang Chu. Đến thế kỷ 20, nhà khoa học nổi tiếng Albert Einstein nêu lập luận rằng không có cách nào để phân biệt giữa lực quán tính và lực trọng trường. Khi một cố thể vật chất di chuyển, lực quán tính đẩy nó di chuyển mãi nếu không có một lực nào khác cản lại, chẳng hạn quả địa cầu di chuyển mãi mãi trên quỹ đạo với một vận tốc không đổi là 365 ngày 6 giờ thì giáp một vòng quanh mặt trời. Còn lực trọng trường là sức hút lẫn nhau của các cố thể vật chất, chẳng hạn nếu ta nhảy ra khỏi một tầng lầu thì sẽ rơi xuống đất vì bị quả đất hút. Còn ở khoảng cách chừng 400 km cách mặt đất thì không còn lực trọng trường, đó là tình trạng vô trọng lực, nếu phi hành gia bước ra khỏi phi thuyền cũng không bị rơi xuống đâu cả. Lập luận của Einstein có liên quan tới nhận thức về chân lý. Lực trọng trường và lực quán tính có thể coi là tiêu biểu cho thực và mộng trong cuộc sống thế gian. Thực và mộng không dễ phân biệt như người ta tưởng. Người bình thường ắt tưởng rằng Trang Chu và Descartes chắc là khùng nên không phân biệt được thực và mộng. Phật thuyết thập nhị nhân duyên, nói rằng cuộc sống đời thường của chúng sinh cũng là nằm mơ giữa ban ngày mà không tự biết. Trang Chu và Descartes chỉ mới hoài nghi chứ chưa hiểu rõ, còn Đức Phật thì đã thân chứng đó đích thực là mộng mơ. Kinh điển Phật giáo gọi cái mộng mơ đó là thế lưu bố tưởng, tức là tưởng tượng đã lưu truyền rộng rãi, đã thành nề nếp trên thế gian nên không dễ gì dẹp bỏ được. Bậc thánh trí giác ngộ cũng có thế lưu bố tưởng bởi vì cũng giống như đông đảo chúng sinh đều thấy như thế, bởi vì có cùng một cấu tạo giác quan như nhau, nhưng các ngài không có trước tưởng tức không chấp trước rằng đó là sự thật, bởi vì các ngài thấy rõ đó là do nhân duyên giả hợp.

Trang Tử thì mãi mãi hoài nghi, không xác định được đâu là mộng đâu là thực.

Để đánh tan sự hoài nghi, Descartes lập luận rằng : “Tôi tư duy tức tôi tồn tại” (Je pense, donc je suis), như vậy Descartes thừa nhận rằng tư duy, nghĩ ngợi tức là tồn tại, là cuộc sống, là thực. Như vậy cần phải có “thức” hay sự nhận biết bằng tư duy mới xác nhận được sự thực là cuộc sống đời thường của chúng ta. Nếu không có “thức” thì không biết sự thực là thế nào. Một nhà triết học khác của Đức thế kỷ 18 là Immanuel Kant cho rằng : Người ta không nhận thức được vật tự thể (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được sự trình hiện (Erscheinung) của nó. Sự trình hiện này được hình thành bởi con người trong vai một chủ thể, bởi giác tính thuần túy (reiner Verstand).

Vô hình trung, cả Descartes và Kant đều xác nhận rằng chính tư duy hay thức xác nhận sự tồn tại của cái gọi là sự thực, kể cả đó là một vật thể bằng vật chất. Nhưng Kant sâu sắc hơn khi nói rằng sự thực không phải chỉ là sự trình hiện của tư duy hay ý thức như Descartes nói, mà nói rằng do giác tính thuần túy. Giác tính thuần túy này tương đương với thức thứ tám (A-lại-da thức) của Duy thức học Phật giáo, còn cái tôi tư duy (je pense) của Descartes chỉ tương đương với thức thứ sáu là ý thức. Cần nhớ là Duy thức học Phật giáo mô tả thế giới được hình thành bằng 8 thức. Để hiểu rõ ràng hơn 8 thức này, tôi xin nhắc lại và đối chiếu nó với tin học ngày nay.

Số TT Duy Thức học Phật giáo Tin học Hiệu ứng (thức) Đối tượng  (objects)
1 Mắt Video card Thấy Sắc (vật chất)
2 Tai Sound card Nghe Âm thanh
3 Mũi Chưa có Ngửi Mùi hương
4 Lưỡi Chưa có Nếm Cảm giác ngọt mặn, chua, cay…
5 Thân thể Chưa có Cảm giác tiếp xúc Cảm giác êm, đau, trơn, nhám…
6 Não Ram và CPU Ý thức Tư tưởng, tình cảm, ưa, ghét…
7 Mạt-na (Manas) Đĩa cứng Chấp ngã, khu biệt Cái tôi, cái của tôi
8 A-lại-da (Alaya) Internet Cảm nhận thế giới Vũ trụ, vạn vật

Một cá nhân trong thế giới đời thường tương ứng với một ổ đĩa cứng trong tin học, nó có giới hạn, nó khu biệt với cá nhân khác, giống như một ổ đĩa cứng phân biệt mình với các ổ đĩa khác. Tâm trong Phật giáo là A-lại-da thức, hoạt động nhận thức phân biệt là do Ý thức, Mạt-na thức là ý thức chấp ngã, nó tự cho rằng mình là một thực thể hiện hữu, khác biệt với phần còn lại của thế giới, giống như ổ đĩa cứng trong máy vi tính, nó là một thực thể riêng biệt, có quan hệ trao đổi dữ liệu với các ổ đĩa cứng khác trong mạng nội bộ và trao đổi với internet, nhưng luôn phân biệt giữa mình với phần còn lại của thế giới. A-lại-da thức giống như internet, sức chứa của nó là vô hạn, khả năng cũng vô hạn, tất cả dữ liệu của nó đều có thể hiển thị ở một cá thể khi có đủ nhân duyên, giống như dữ liệu trên internet khi có đủ điều kiện như sự kết nối (internet access), các softwares, thì có thể hiển thị trên một máy tính cá nhân, laptop, máy tính bảng, smartphone…

Trở lại vấn đề mộng và thực, trong giấc mộng, chúng ta cũng có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc với các đối tượng trong mộng, đúng không ? Trong mơ, chúng ta gặp người yêu, vui mừng ôm hôn, hay thấy thức ăn ngon, ăn uống, tất cả đều có cảm giác như thật. Nhưng khi tỉnh giấc mới biết đó là mộng. Còn trong cuộc sống đời thường, chúng ta cảm thấy mọi thứ chung quanh đều là thật, và sự thực này khá vững bền, lâu thay đổi. Ví dụ một mỹ nhân cũng phải trải qua ba bốn mươi năm thì nhan sắc mới tàn phai. Chúng ta cũng không bao giờ thức tỉnh (giác ngộ) nên chẳng bao giờ biết được đó là mộng. Các nhà triết học như Trang Tử, Descartes, Kant đều có suy nghĩ tới vấn đề này và có nêu ra sự hoài nghi, còn tuyệt đại đa số người đời thì chẳng bao giờ hoài nghi, chỉ nhắm mắt, không hề bận tâm suy nghĩ xem thế giới có phải là sự thực không hay chỉ là mộng, mà họ tin tưởng 100% rằng thế giới là thực.

Tuy nhiên ngoài một số ít triết học gia đã đặt nghi vấn, một số khoa học gia ngày nay cũng nêu nghi vấn, vì khi khoa học đã đạt tới một trình độ cao thì họ nhận biết được rằng ý thức có tham dự vào sự cảm nhận về vật chất, tức là họ bắt đầu hiểu được Kant.

Sự phát minh ra máy vi tính (computer) xác nhận một cách rõ ràng và chắc chắn là những hạt ảo như electron có thể tạo ra dòng điện. Một dòng điện có hai trạng thái khác nhau : một là đóng mạch tức có dòng điện chạy qua, hai là ngắt mạch tức không có dòng điện. Người ta dùng con số để biểu diễn hai trạng thái đó : số 1 để chỉ đóng mạch, số 0 để chỉ ngắt mạch. Người ta lại dùng hệ đếm nhị phân, tức là chỉ dùng hai cơ số 0 và 1 để biểu diễn tất cả mọi con số, mọi trạng thái về chữ viết, hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Số 0 và 1 được đặt tên là bit thông tin. Một con số của hệ thập phân thường dùng hay một chữ cái trong bảng mẫu tự La tinh được biểu diễn bằng một con số nhị phân, thí dụ :

Nhị phân       Thập phân   Đồ hoạ
100 0000            64      @
100 0001            65      A
100 0010            66      B
100 0011            67      C
100 0100            68      D
110 0001            97      a

Chữ @ (a còng trong địa chỉ email) mã số là 64 (thập phân) hoặc 100 0000 (nhị phân)

Chữ A (viết hoa) có mã số là 65 (thập phân) hoặc 100 0001 (nhị phân)

Chữ a (viết thường) có mã số là 97 (thập phân) hoặc 110 0001 (nhị phân)

Về sau người ta sử dụng từ 8 tới 10 bit để diễn tả một con số hay một ký tự cơ bản và đặt tên là byte. Bội số của byte là kilobyte (KB) = 1024 bytes, Megabyte (MB) = 1024 KB, Gigabyte = 1024 MB, Terabyte = 1000 GB.

Ví dụ : bài hát sau đây cần sử dụng 24.734.336 bytes  (23.5 MB) để thể hiện :

Sheila Vive la Terre 1971 Lyrics2 Traduction Vietnamienne

Tất cả mọi vật ảo như chữ viết, hình ảnh, âm thanh, video… đều có thể dùng con số để diễn tả, việc này được gọi là số hóa, tức biến thành con số. Tập hợp các con số được máy vi tính giải mã tức biến trở lại thành chữ viết, hình ảnh, âm thanh, video… mà con người quen thuộc. Các dữ liệu thông tin có thể được gởi đi xa qua mạng internet và qua các loại sóng vô tuyến vô cùng tiện lợi mà hiện nay chúng ta đang thừa hưởng.

Thế còn các vật thể bằng vật chất mà tuyệt đại đa số người đời đều cho rằng có thật như thân thể con người, nhà cửa, xe cộ, vật dụng, núi non, sông ngòi, đại dương, hành tinh, mặt trời, vũ trụ là vật thật hay vật ảo ? Hầu hết mọi người đều cho rằng đó đều là các vật thật, không phải ảo và không thể xử lý giống như dữ liệu tin học. Tuy nhiên không phải tất cả các khoa học gia đều cho rằng như vậy, một vài người như David Bohm hay Craig Hogan tin rằng vũ trụ vạn vật cũng là ảo và có thể xử lý giống như dữ liệu tin học nhưng hiện nay thì con người chưa biết cách xử lý. Lập luận của họ dựa vào đâu ? Dưới đây là một vài căn cứ :

1/Nguyên lý toàn ảnh.

Nếu trong thế giới tin học, dữ liệu được chứa trong mặt phẳng hai chiều (2D). Khi phóng hiện thành phim video thì có thêm chiều kích thời gian. Như vậy thế giới của phim trên màn ảnh là 3 chiều (2 chiều không gian + 1 chiều thời gian) Cuộc sống trong phim hiển nhiên là cuộc sống ảo, chỉ những nhân vật của cùng cuốn phim mới có thể tiếp xúc được với nhau.

David Bohm khám phá rằng vũ trụ là một toàn ảnh, tức là không gian 3 chiều của vũ trụ cũng có thể nén lại trên mặt phẳng 2 chiều theo đồ hình sau :

Laser  : máy phát tia laser

Màn trập : thiết bị để đóng hoặc mở tia laser

Kính phân tia : chia tia sáng làm 2 phần, 1 phần đi thẳng xuyên qua kính, 1 phần phản chiếu đi vào thấu kính phân kỳ.

Thấu kính phân kỳ : tia sáng qua kính này tỏa rộng ra, trái ngược với thấu kính hội tụ

Phim tráng nhũ tương : để chụp ảnh hoặc quay phim ảnh toàn ký

Ảnh toàn ký :  ảnh trong không gian 3 chiều, có chiều sâu, có đầy đủ chi tiết của vật thể 3 chiều

hologram copy

Nguyên tắc hoạt động của ảnh toàn ký

Để tạo được ảnh toàn ký của một vật (ví dụ trong hình là ngôi sao màu xanh lá cây), người ta cho tia  laser qua một kính phân tia, ánh sáng một phần đi thẳng đến gương phản chiếu, qua thấu kính phân kỳ rồi mới tới phim, một phần ánh sáng bị phản chiếu, đi qua một thấu kính phân kỳ khác, tới một gương phản chiếu, rọi lên vật rồi mới phản chiếu lại trên phim. Ảnh mà phim ghi được là ảnh toàn ký, khi được tái hiện thì trở thành ảnh 3 chiều, người xem không cần mang kính vẫn thấy đó là ảnh nổi 3D.

Một đặc điểm kỳ diệu của ảnh toàn ký là bất cứ một phần nhỏ nào của tấm ảnh, cũng chứa đầy đủ ảnh 3D của vật, do đó dù có xé tấm ảnh ra ngàn mảnh, chỉ cần một mảnh là đủ để tái hiện trọn vẹn ảnh 3D của vật.

Ảnh của các vật trong vũ trụ đều là ảnh toàn ký. Do đó chỉ cần nắm bắt một chút ít ánh sáng mang tín hiệu của quá khứ, là đủ để phục nguyên toàn bộ vật cảnh của quá khứ. Đặc tính toàn ký này cũng thể hiện rằng số lượng là không có thật, một là tất cả. Như vậy nếu nắm được một chút thông tin về quá khứ thì có thể tái hiện quá khứ.

Các thông tin về một ngàn năm lịch sử gần đây nhất của nhân loại có thể đã được ánh sáng và hạt neutrino mang đi cách xa trái đất một ngàn quang niên. Các dữ liệu đó nếu có thể nắm bắt và được số hóa, không cần phải nắm toàn bộ, chỉ cần một phần rất nhỏ, vì theo nguyên lý toàn ảnh, chỉ cần một phần nhỏ vừa đủ là có thể tái tạo toàn bộ lịch sử địa cầu trong một ngàn năm. Dữ liệu được phóng lên thành không gian 3 chiều, cộng với chiều thời gian thành cuộc sống đích thực 4 chiều của 1000 năm trước.

Khoa học hiện nay chưa có cách nào đuổi kịp ánh sáng và các hạt neutrino mang thông tin nên việc tái hiện quá khứ chỉ là khoa học viễn tưởng. Nhưng đối với với Phật và Bồ Tát như Quán Thế Âm thì lại khác, các ngài có khả năng di chuyển với tốc độ của ý niệm, biết rằng không gian vũ trụ, vật chất là không có thật, tất cả chỉ là do tâm tạo, nên biết rằng quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ là ảo tưởng, tất cả đồng thời tồn tại và tất cả chỉ là ảo. Do đó muốn thấy lại khung cảnh của thành Ca Tỳ La Vệ hơn 2500 năm trước hoặc thấy Đức Phật tương lai là Di Lặc chẳng có gì là khó.

2/Vũ trụ là số – bit thông tin vũ trụ

Craig Hogan còn trình bày cụ thể bit thông tin của vũ trụ là như thế nào.

Theo lý thuyết của Hogan, mọi vật trong thế giới 3D (thế giới đời thường của chúng ta) đều có thể mã hóa trên một diện tích 2D ở độ phân giải Planck. Kích cỡ Planck là kích cỡ nhỏ nhất. Và những bit cơ bản của thông tin nằm trong kích cỡ Planck. Kích thước Planck là khoảng cách vật lý nhỏ nhất còn có ý nghĩa, dưới khoảng cách này thì con số chỉ còn là con số toán học vô nghĩa, nó vô nghĩa vì không còn tương ứng với một thực thể vật lý nào. Kích thước Planck là 10-33   (mười lũy thừa trừ 33) cm. Đó chính là kích thước của lượng tử (quantum). Từ kích thước Planck, ông tính ra diện tích Planck là 10-66 cm2 (mười lũy thừa trừ 66 centimét vuông). Một bit thông tin vũ trụ bằng 4 diện tích Planck.

vutrulaso-1

Một bit thông tin vũ trụ bằng 4 diện tích Planck

Craig Hogan nói rằng khi dữ liệu được dựng lên thành không gian 3 chiều tức là đã tăng khoảng không gian lên gấp bội so với mặt phẳng 2 chiều, tạo ra một độ nhòe giống như khi chúng ta phóng một tấm ảnh lên quá lớn thì nó bị nhòe. Sự nhòe đó tạo ra tiếng ồn toàn ảnh, tiếng ồn này đã được kiểm chứng, quả thực là có, cũng giống như việc người ta đã phát hiện được tàn tích của vụ nổ Big Bang.

Như vậy thuyết vũ trụ là số đã có cơ sở thực nghiệm. Mà vũ trụ là số tức nó phải là ảo. Vũ trụ đích thực là ảo thì không có gì phân biệt giữa thực và mộng. Sờ mó nắm bắt được, ngửi nếm ăn uống được, tiêu hóa tăng trưởng được, cũng không đảm bảo là thật, đó chỉ là sự đồng bộ giữa các giác quan mà thôi.

Đức Phật từ hơn 2500 năm trước đã nói một cách rõ ràng rằng vũ trụ, vạn vật, thế giới chỉ là ảo, là không có thật. Lời nói đó được ghi chép rõ ràng trong một bộ kinh rất ngắn nhưng rất quan trọng, rất tập trung của Phật giáo, đó là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, tu sĩ PG hàng ngày đều có đọc tụng kinh này, trong các đám ma tại Việt Nam và các xứ theo PG khác, như Trung Quốc, Thái Lan chẳng hạn, bất kể là người chết có theo PG hay không, nếu có mời sư đến tụng kinh, họ đều có tụng kinh này. Hãy nghe bản kinh này được phổ nhạc có ca từ bằng tiếng Phạn được sư ông Thích Nhất Hạnh Việt dịch :

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (tiếng Phạn) Dạ Lai Hương hát có dịch nghĩa tiếng Việt 

Bản kinh cũng đã được đại sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán khoảng 1300 năm trước và sử dụng rất phổ biến tại các nước theo Phật giáo Đại Thừa. Hãy nghe ca sĩ Phật tử Mạnh Đình Vy thể hiện.

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh – Mạnh Đình Vy – Ca từ – Việt dịch

Sự kiện các nhà đặc dị công năng hiện đại như Trương Bảo Thắng đi xuyên qua tường, lấy trái táo ra khỏi chiếc thùng sắt đã bị hàn kín, hay Hầu Hi Quý lấy xăng từ khoảng cách 50 km đổ vào xe hơi một cách tức thời, hay dùng tâm niệm lấy một triệu nhân dân tệ từ trong kho bạc ngân hàng có ba lớp cửa khóa chặt, đem về phòng ngủ của mình, càng chứng tỏ các vật thể đều là ảo và có thể dùng tâm niệm để điều khiển, những lời nói của Đức Phật không phải là hư giả.

Tóm lại sự phân biệt thực và mộng chỉ có ý nghĩa tương đối, thật ra là không thể phân biệt. Nhận thức này đã được Đức Phật tuyên thuyết, các nhà triết học như Trang Tử, Kant cũng có nêu lên sự hoài nghi. Các nhà khoa học xưa như Descartes cũng có hoài nghi, còn các nhà khoa học hiện đại như David Bohm, Craig Hogan có trình bày cơ sở rõ ràng. Vấn đề hiện nay là người ta chưa biết cách xử lý bit thông tin của vũ trụ. Những người như Trương Bảo Thắng, Hầu Hi Quý làm được nhưng cũng không lý giải được nên chưa giúp ích được nhiều cho khoa học. Có lẽ nhân loại còn phải chờ sự phát minh ra máy tính lượng tử mới hy vọng xử lý được bit thông tin vũ trụ.

Truyền Bình

Advertisement

About Duy Lực Thiền

Tổ Sư Thiền do cố hòa thượng Thích Duy Lực hướng dẫn
Bài này đã được đăng trong Bài viết. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

9 Responses to MỘNG VÀ THỰC KHÔNG DỄ PHÂN BIỆT

  1. Hằng nói:

    Cảm ơn bác Truyền Bình nhiều !

    Chúc bác luôn mạnh khỏe để có nhiều hơn các bài cho blog

      • Trần Đức Toàn nói:

        Khi nghiên cứu về vũ trụ và truy tìm nguồn gốc của big bang, người ta tìm thấy và nghiên cứu bức xạ nền của vũ trụ (bức xạ viba), thấy thằng tàn tíc xửa xưa ấy như là một không gian 2 chiều.

      • Lý thuyết về Toàn ảnh cũng nói rằng bản gốc của vũ trụ là thông tin nằm trong mặt phẳng 2 chiều. Khi thông tin đó phóng hiện thành không gian 3 chiều thì dữ liệu bị nhòe đi vì tăng kích thước quá lớn, tạo ra tiếng ồn toàn ảnh. Năm 2012 người ta đã khám phá được tiếng ồn toàn ảnh đó. Điều này chứng tỏ vũ trụ là thông tin dạng số (digital) là có cơ sở.

  2. vo danh nói:

    ban noi mo voi that khong de phan biet.nhung hinh nhu muc dich cua ban la chung minh thuc la mo.ban lay ton giao ra doi chieu voi khoa hoc va triet hoc that la khong dung va khap khieng

    • Giả thuyết EPR (của Einstein, Podolsky và Rosen)đưa ra năm 1935 nhằm chỉ trích cơ học lượng tử là thiếu sót và nhầm lẫn. Giả thuyết dựa trên hai tính chất của vật (cụ thể là hạt photon) là : hiện thực (realism) và định xứ (locality). Dựa trên hai tính chất đó, John Bell năm 1964 lập ra bất đẳng thức mang tên mình để kiểm chứng giả thuyết. Trong thập niên 1980 và về sau, rất nhiều thí nghiệm được tiến hành để kiểm chứng bất đẳng thức Bell, tiêu biểu là thí nghiệm của Alain Aspect tại Paris. Kết quả, bất đẳng thức Bell luôn luôn bị vi phạm, chứng tỏ rằng lập luận của nhóm EPR là sai lầm. Photon không hiện thực cũng không định xứ. Điều đó đúng với lời Đức Phật nói, vật chỉ là ảo, không có tự tính. Các hạt cơ bản hạ nguyên tử (subatomic particles) chỉ là ảo thì cái thế giới do chúng cấu thành cũng phải là ảo. Điều này Niels Bohr (1885-1962,nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật). Bạn nên đọc thêm bài này của GS. Cao Chi để hiểu rõ thêm : http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=4861 Ảo hóa mới chính là công dụng làm cho cuộc sống thế gian phong phú, muôn màu muôn vẻ, chứ nếu không có ảo hóa, chỉ có quark và electron thì cuộc đời còn có mùi vị gì ?

  3. vo danh nói:

    The gioi luong tu la the gioi cac quan he,duoc xet mot cach tong the,khong the tach ra xet rieng tung doi tuong duoc,nen khong the xet rieng tung hat duoc.cai dung la cai toan the,va cai toan the co pham tinh hon han cac thanh phan cua no.Va lai co hoc luong tu van chua hoan thien,nhung van de co so triet hoc cua no con co rat nhieu dieu tranh cai.Feyman,nha khoa hoc tai nang hang dau cua My da tung noi:”toi co the chac chan rang khong co ai co the hieu co hoc luong tu ca” va ngay ca einstein cung da noi:”neu ai noi la anh ay hieu co hoc luong tu thi anh ay la mot ke noi doi”.Ban co phai la nha vat ly chuyen nghiep khong? neu khong phai thi lam sao ban chac chan duoc nhung dieu ban noi,vi ngay ca nhung nha vat ly chuyen nghiep ho cung chua chac nua ma.khoa hoc nhan thuc dua tren ly tri.theo phuong phap quy nap va duoc kiem nghiem chinh xac bang thuc nghiem.Con ton giao nhan thuc dua tren truc giac va duc tin va khong co cach gi kiem nghiem chinh xac duoc.Neu khong co khoa hoc thi lam sao ban co the tin duoc nhung quan diem cua Duc Phat la dung.Khoa hoc chung minh va duoc kiem nghiem buoc nguoi khac phai tin,con ton giao chi dua ra quan diem con ai tin hay khong tin cung duoc.khoa hoc soi sang cho ton giao chu khong co nguoc lai.

    • Bạn nên đọc bài này của Freeman Dyson do Phạm Văn Thiều (một dịch giả có uy tín về khoa học) dịch.
      http://sgtt.vn/Khoa-giao/148716/Mot-emgekigaem-tuyet-voi-ve-Richard-Feynman.html
      Xin trích một đoạn :
      Vào những năm cuối đời, quan điểm bảo thủ của Feynman về khoa học lượng tử đã trở nên lỗi mốt. Các nhà lý thuyết thời thượng bác bỏ bức tranh nhị nguyên luận của ông về tự nhiên, với thế giới cổ điển và thế giới lượng tự tồn tại song song bên cạnh nhau. Họ tin rằng chỉ có thế giới lượng tử là thực, còn thế giới cổ điển phải được giải thích như là một loại ảo giác xuất hiện từ các quá trình lượng tử. Họ cũng không nhất trí với cách mà các định luật lượng tử cần được giải thích. Vấn đề cơ bản của họ là phải giải thích cho được là làm thế nào mà thế giới lượng tử của những xác suất lại có thể sinh ra những ảo giác có tính tất định cổ điển mà mỗi chúng ta đều trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Những giải thích khác nhau của họ về lý thuyết lượng tử đã dẫn đến những tư biện triết học cạnh tranh nhau về vai trò của người quan sát trong mô tả tự nhiên.

      • Vô danh nói:

        Bạn à.Tôi chỉ nói với bạn là những thứ đó người ta còn phải tranh luận rất nhiều,chứ chưa ngã ngủ gì đâu.bạn đã nói về descartes,chắc bạn biết quan niệm của descartes về chân lý chứ? Descartes chỉ coi là chân lý những gì không thể hoài nghi được nữa tức là bất khả nghi,còn những gi dù chỉ hoài nghi một chút thôi cũng bị coi là sai lầm.Những vấn đề bạn viết còn rất nhiều điểm còn hoài nghi,còn là bí mật to lớn của vũ trụ chứ không thể kết luận như bạn được.Dĩ nhiên bạn có quyền tin như vậy,nhưng để thuyết phục được người khác thì như vậy thì e rằng không đủ.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s