TÂM VÀ THỜI ĐẠI LƯỢNG TỬ

Tâm là thể vô hình, không phải vật chất, không tùy thuộc vào không gian, thời gian và số lượng. Sự giác ngộ của Đức Phật phát hiện rằng Tâm là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, tất cả đều là tâm, do đó tuy tâm không phải là vật chất nhưng cũng không khác vật chất, tâm chính là vật, vật cũng chính là tâm. Vì vậy Thành Duy Thức Luận của Huyền Trang nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (tam giới chỉ là tâm, vạn pháp –tất cả các pháp hữu hình hay vô hình, vật chất hay phi vật chất – chỉ là thức). Vì không tùy thuộc không gian, thời gian và số lượng nên tâm có những tính chất đặc biệt, thật ra những tính chất này là do nhận thức của con người gán cho tâm, bao gồm :

-Phi hiện thực (non realism) : không có thật, mọi sự vật hiện tượng chỉ là biểu kiến, là ảo.

-Bất định xứ (non locality) : không có vị trí nhất định, khái niệm này kinh điển xưa gọi là vô sở trụ.

-Phi số lượng (non quantity) : không có số lượng, không thể phân biệt là nhiều hay ít.

Nếu chỉ có Tâm có những tính chất như trên, còn vật thì có những tính chất ngược lại như người đời vẫn quen nghĩ, thì đã không có bài viết này, bài viết này đã không có lý do để hiện hữu. Nhưng khoa vật lý học của loài người đầu thế kỷ 20 đã phát hiện những tính chất kỳ bí của vật chất mà xưa kia chỉ có những triết gia đi trước thời đại mới nghĩ tới, những nhà khoa học hàng đầu thế giới của thế kỷ 20 đã đưa vật lý học bước vào thời đại lượng tử (quantum era).

Sự manh nha của thời đại lượng tử      

Thời đại lượng tử manh nha vào năm 1900 khi Max Planck phát hiện tính gián đoạn của bức xạ điện từ phát ra từ các vật, từ đó ông lập ra thuyết lượng tử năng lượng để giải thích những kết quả thực nghiệm về bức xạ nhiệt của các vật đen. Theo thuyết này, năng lượng phát ra theo từng đơn vị, từng gói rời rạc mà ông gọi là lượng tử (quantum). Ông đưa ra một công thức rất đơn giản nhưng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng :

E (năng lượng) = h (hằng số Planck) v(tần số của bức xạ)

E tính bằng electron volt

h = 6,626 x 10-34 tính bằng J/s (Joule/giây)

v tính bằng herzt (Hz), tần số ánh sáng trung bình khoảng 5 x 1014 Hz

Vậy năng lượng của một lượng tử ánh sáng (photon) E = 6,626 x 10-34 x 5 x 1014 = 3,313 x 10-19 electron volt (eV).

Albert Einstein đã sử dụng thuyết lượng tử để lý giải thành công hiện tượng quang điện. Trước kia người ta cho rằng ánh sáng chỉ là sóng nên không giải thích được hiện tượng quang điện. Sau khi Planck phát hiện năng lượng phát ra theo từng gói và đưa ra công thức trên, Einstein nghĩ rằng ánh sáng có thể là hạt và dùng khái niệm này lý giải được hiệu ứng quang điện. Về sau hiệu ứng này được ứng dụng trong việc sản xuất điện bằng quang năng của mặt trời.

Năng lượng ánh sáng mặt trời có thể biến thành điện năng. Ở một nơi nhiều nắng, một năm có thể có 300 ngày nắng như tại miền nam VN, theo tính toán của cơ quan NASA Mỹ, thông số bức xạ của ánh nắng tại miền nam VN có thể cung cấp 4,8- 5,23 kwh/m2/ngày, có thể coi là đạt mức chuẩn. Các tấm pin mặt trời thường dùng đơn vị Watt peak (Wp), đó là công suất tính bằng watt mà tấm pin cung cấp được trên một m2 với điều kiện bức xạ tiêu chuẩn là 1000 watts/m2. Ví dụ Wp của tấm pin mặt trời là 135 Wp, có nghĩa là trong điều kiện chuẩn (trời nắng tốt, không mây, góc chiếu thẳng, nhiệt độ môi trường 25 độ C) một tấm pin rộng 1 m2 có thể cung cấp dòng điện một chiều công suất 135 watts. Trong thực tế dòng điện sản xuất ra còn bị tiêu hao trong quá trình vận hành của hệ thống, muốn có 1kwh điện hữu dụng, phải sản xuất ra 1,3 kwh để bù hao hụt, do đó nhu cầu tiêu thụ thực tế phải nhân thêm với hệ số trừ hao 1,3. Thông số hoạt động hữu hiệu trung bình của điện mặt trời là 5 giờ/ngày. Nếu một hộ gia đình sử dụng điện trung bình mỗi ngày 10kwh thì cần một số lượng tấm pin ứng với công suất 135W như sau:

10kwh x 1.3/0.135kw x 5h # 20 tấm pin, tức 20 x 135 = 2700 wp hay 2,7 kwp.

Trong thực tế người ta không làm tấm pin vừa đúng 1 m2 mà thường mỗi tấm có 72 tế bào quang điện (cell). Kích thước mỗi cell là từ 5-6 inches (12,7 – 15,24 cm). Kích thước một tấm pin 180 wp của TQ là 1580x808x40mm, tức diện tích 1.58 x 0,808 = 1,277 m2 dày 4 cm, ngoài ra còn có khung nhôm để gá các cell, trọng lượng khoảng 15,5kg.

Trong trường hợp dùng tấm pin 135W và cần có 10 kwh mỗi ngày thì nên lắp đặt luôn 3kwp. 1 kwp có diện tích khoảng 8 m2 , 3kwp cần 24 m2 tấm pin. Giá 1 tấm pin 135 wp hiện nay là 3,3 triệu đồng, vậy 24 tấm x 3.3 = 79.2 triệu đồng. Như vậy đầu tư cho điện mặt trời hiện nay cũng còn khá đắt, chưa kể là bạn còn phải trang bị inverter để biến điện một chiều của các tấm pin thành điện xoay chiều 220 v cho phù hợp với các thiết bị trong nhà, phải có bình accu để tích điện, ban đêm hoặc ngày không có nắng lấy ra tiêu thụ. Do đó tại VN, chưa có nhiều người sử dụng loại năng lượng sạch này. Theo như tôi biết thì bên Anh, nhà xây dựng để bán cho dân, người ta đã lắp đặt sẵn điện mặt trời, hòa vào lưới điện quốc gia, người sử dụng không cần tích điện bằng bình accu, vì ban đêm hay ngày không nắng thì đã có điện lưới, họ ưu tiên sử dụng điện mặt trời do nhà mình phát ra, không đủ thì dùng điện lưới. Do đó dù người tiêu dùng muốn hay không muốn thì điện mặt trời vẫn cứ phát triển, đó là chính sách của nhà nước.

Trên đây là ứng dụng thực tiễn trực tiếp của thuyết lượng tử mà Max Planck và Einstein là những người đi đầu, đã đóng góp cho khoa học cũng như cho nhân loại.

Nhân loại tiến bước vào thời đại lượng tử  

Năm 1927, Werner Karl Heisenberg, nhà vật lý người Đức phát hiện tính chất bất định của lượng tử, cụ thể là của hạt electron, và ông phát biểu trong nguyên lý bất định (principle of uncertainty). Sau đó người ta phát hiện hiện tượng vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Trước đó, năm 1924, hiện tượng hạt photon đi qua hai khe hở có biểu hiện lưỡng tính, có khi là hạt, có khi là sóng, mà Louis de Broglie nêu ra, khiến các nhà khoa học đã rất chưng hửng. Như vậy ánh sáng không phải chỉ là hạt như Einstein đã chứng minh mà còn là sóng như trước kia người ta vẫn quan niệm. Hai hiện tượng này đặt ra một nghi vấn rất cơ bản và rất lớn về vật chất, vật chất thực sự là cái gì ? các nhà khoa học hàng đầu thế giới tranh luận nhau rất dữ dội, điển hình là cuộc tranh cãi bất phân thắng bại giữa Albert Einstein và Niels Bhor sau khi Einstein, Podolsky và Rosen cùng nhau đưa ra giả thuyết EPR, trong đó họ nghi ngờ lý thuyết của cơ học lượng tử là không hoàn chỉnh và có thể là sai. Đến năm 1964, sau khi cả Einstein và Bhor đều đã qua đời, John Bell lập ra một bất đẳng thức nhằm kiểm tra giả thuyết EPR, nhưng cũng chưa thực hiện được ngay. Đến 1982, khi trình độ khoa học của nhân loại đã đủ để tiến hành cuộc kiểm nghiệm quan trọng này, Alain Aspect tiến hành cuộc thí nghiệm tại Paris. Kết quả khiến cho nhân loại phải sững sờ, phần thắng đã nghiêng về Bhor. Người ta xác định được hạt photon quả thật có những tính chất cũng giống như Tâm:

-Phi hiện thực (non realism): các số đo đặc trưng của hạt photon không có sẵn, mà nó chỉ phát sinh trong khi tiến hành quan sát và đo đạc.

-Bất định xứ (non locality) : hạt photon không có vị trí nhất định trong không gian, nó có thể có hai hoặc rất nhiều vị trí khác nhau. Giữa các vị trí đó không có khoảng cách không gian, hay nói cách khác, không gian không có thật. Một hạt photon biến đổi thì hạt kia cũng biến đổi theo mà không mất chút thời gian nào bởi vì khoảng cách không gian không có thật, không có vấn đề truyền tín hiệu.

-Phi số lượng (non quantity) : Vì một photon có thể xuất hiện đồng thời tại hai hoặc nhiều vị trí khác nhau, suy ra số lượng chỉ là biểu kiến, là ảo chứ không phải thật. Đến năm 2012, Maria Chekhova có thể cho 1 photon xuất hiện đồng thời tại 100.000 vị trí khác nhau, càng chứng tỏ rõ ràng số lượng vật chất chỉ là tưởng tượng.

Tóm lại, Vật chất cũng có những tính chất giống y như Tâm. Không đợi đến năm 1982, trước đó Heidenberg cũng đã nói rằng : “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).

Thực nghiệm của các nhà đặc dị công năng càng chứng tỏ những tính chất kỳ lạ kể trên của vật chất, và cũng không hạn chế ở mức độ lượng tử, cố thể vật chất cũng hành xử không khác gì lượng tử. Năm 1979, Hầu Hi Quý đứng tại làng Loan Sơn tỉnh Hồ Nam, trong chớp mắt, lấy một gói thuốc lá hiệu Đỗ Quyên Hoa tại huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải, cách xa 1600 km. Trương Bảo Thắng có thể tùy tiện dùng ý niệm lấy sợi dây nịt đang mang trong lưng quần của một nhà xã hội học đang ngồi trước đám đông cử tọa phản bác đặc dị công năng. Năm 1991, Hầu Hi Quý dùng tâm lực di chuyển nguyên một cái bàn mạ vàng của nhà tỷ phú Hong Kong Lý Gia Thành (Li Ka-Shing) từ nhà tới văn phòng làm việc của ông.

Dùng tâm lực di chuyển cái bàn mạ vàng

Những thực nghiệm kể trên chứng tỏ rằng cố thể vật chất cũng bất định xứ như lượng tử. Cố thể vật chất không di chuyển linh động như lượng tử nhưng không phải là không thể.

Thời đại lượng tử manh nha từ năm 1900 khi Max Planck phát hiện tính gián đoạn của năng lượng, ông cũng không ngờ rằng đó là một phát hiện vô cùng quan trọng về vật chất, mở đầu cho thời đại lượng tử. Đến cuối thế kỷ 20 khi loài người đã phát triển được computer, mạng internet toàn cầu và các loại thiết bị tương tự computer như laptop, tablet, điện thoại di động…nhân loại đã chính thức bước vào thời đại lượng tử, những tính chất của lượng tử như phi hiện thực (cũng có nghĩa là thế giới ảo), bất định xứ và phi số lượng, được ứng dụng rộng rãi.

Con người ngày nay đã dành cả chục tiếng đồng hồ mỗi ngày để sống trong thế giới ảo của máy vi tính và điện thoại di động. Đánh văn bản, viết email, xử lý âm thanh và video, xem truyền hình, xem video, nghe ca nhạc…đều là hoạt động tương tác với thế giới ảo. Tính chất bất định xứ được cảm nhận một cách rõ rệt khi chúng ta đi bất cứ nơi đâu, vẫn có thể liên lạc trực tiếp với nhau dễ dàng, không còn tùy thuộc vào khoảng cách không gian, nó đã bị triệt tiêu trên phạm vi địa cầu rồi. Khi con gái tôi đi du lịch bên Đức, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) và Nhật Bản, đi tới đâu nó đều có thể gởi ngay hình ảnh cho tôi, gọi điện miễn phí khi có gì cần trao đổi qua mạng Viber hoặc Skype. Khi về tới nhà, nó liền nhắn cho tôi cái tin, tôi tức thời nhận được, bất kể lúc đó tại VN đã là 3g khuya, tôi đang ngủ, nghe tín hiệu tin nhắn viber, dậy coi và an tâm vì con gái báo tin đã bình an về nhà, không còn lo tai nạn giống như MH370 và MH17. Tính chất phi số lượng cũng thể hiện rõ rệt. Con gái tôi đưa hình ảnh tại các nước nó đi qua lên Facebook, thì gia đình, bà con, bạn bè từ khắp thế giới, bất kể số lượng nhiều hay ít đều có thể nhìn thấy. Như vậy mỗi tấm ảnh nó đưa lên đã biến thành hàng chục, hàng trăm hoặc hàng ngàn ảnh cho người thân quen, bạn bè ở khắp nơi đều có thể nhìn thấy.

Vấn đề tiếp theo của thời đại lượng tử là gì ?

Các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay nói rằng cái thế giới đời thường mà chúng ta đang sống cũng là một thế giới ảo khác, chỉ là cao cấp hơn thôi. Có người nói thế giới đời thường cũng có bản chất là số (digital), vậy thì nó cũng không khác gì thế giới của máy vi tính. Nhưng thay vì là thế giới phẳng hai chiều, thế giới đời thường được phóng hiện ra khỏi mặt phẳng và có 3 chiều không gian. Cách thức phóng hiện ra khỏi mặt phẳng đã được trình bày rõ ràng trong phương pháp toàn ảnh. Vũ trụ vạn vật là một toàn ảnh. Bộ não của con người cũng là một toàn ảnh. Bộ não quản lý 6 thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). Hoạt động đồng bộ của 6 thức đó được ghi nhận và tích lũy thành mạt-na thức (thức chấp ngã, ý thức của cái tôi). Toàn bộ các mạt-na thức là Tâm hay A-lại-da thức. Tất cả các mạt-na thức cũng chỉ là một mà thôi, giống như một hạt photon có thể xuất hiện ở 100.000 hay một tỉ vị trí. Tất cả tứ tướng (ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả) cũng chỉ là một Tâm.

Như vậy thế giới đời thường cũng đồng bản chất với thế giới lượng tử hay thế giới ảo, nghĩa là cũng chỉ là ảo hóa chứ không phải thật có, chỉ là tưởng tượng theo một thói quen, một tập khí mê mờ nào đó thôi. Cái tập khí mê mờ đó, PG gọi là vô minh. Vậy vô minh là điều kiện cần thiết không thể thiếu để cho thế giới hiện hữu. Vô minh diễn ra như thế nào ? Chúng ta xem chương trình món ngon mỗi ngày trên tivi, thấy các đầu bếp dạy làm đủ thứ món ngon, trông rất ngon lành, nhưng người xem không thể ăn được vì chúng chỉ là ảo do vô minh tưởng tượng ra. Chỉ có người trong chương trình đó nếm được mà thôi. Nhưng nếu những món ăn đó phóng hiện ra không gian ba chiều thì tất cả mọi người đều có thể ăn được. Vấn đề là có cách nào để chúng phóng hiện ra không ? Các nhà đặc dị công năng như Hầu Hi Quý trả lời rằng có thể được. Ông ta từng nhiều lần biểu diễn biến ra thức ăn, rượu, thuốc lá.

Hầu Hi Quý – Biến ra thức ăn và thuốc lá, biến cua giấy thành cua thật

Một khi chúng đã xuất hiện thì hoàn toàn có thể ăn được. Bấy giờ chúng ta nói rằng chúng (thức ăn, thức uống, thuốc lá) đã trở thành vật thật chứ không còn là ảo nữa, vì sờ mó, cầm nắm được, ăn uống tiêu hóa được, làm sao có thể nói là ảo ? Nhưng các bậc giác ngộ ắt nói rằng, chúng bây thật mê muội vô minh, tất cả chỉ là tưởng tượng (thế lưu bố tưởng), không hề có thật. Vật lý lượng tử thế kỷ 21 đã đủ khả năng để lý giải vấn đề này. Toàn thể vật chất trong vũ trụ chỉ là 17 loại hạt cơ bản hạ nguyên tử, mà tất cả chúng đều là hạt ảo, cái mà chúng ta gọi là vật chất, thật ra không có gì cả, chỉ là một cấu trúc trống rỗng, cấu trúc đó chỉ là mối quan hệ nhiều tầng nhiều bậc của các hạt ảo mà nếu không có người nhận thức thì chúng không hiện hữu (PG nói là tánh không) chỉ là tiềm thể có tiềm năng hiện hữu (PG gọi là trùng trùng duyên khởi) nhưng chưa hiện hữu.

Werner Heidenberg đã nói rõ như thế : “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).

Cấu trúc đó chỉ hiện hữu khi có người, sinh vật hay thiết bị, nhận dạng chúng, và sự nhận thức đối với người hay sinh vật dựa trên một tập quán, còn đối với thiết bị thì dựa trên một software tức là chương trình đã qui định cách thức giao tiếp như thế nào. Khi cấu trúc đã hình thành được bộ não, não phát ra từng nhất niệm vô minh liên tiếp nhau và nhận thức tưởng tượng rằng cấu trúc này là con trâu, cấu trúc kia là con ngựa, là hòn núi, là con sông, là nước, là không khí v.v…Nếu không có nhất niệm vô minh thì không một cái gì là có thật.

Nhận thức được như thế thì dần dần con người sẽ tìm được cách biến hóa thế giới vật chất bằng phương pháp mới là tin học chứ không phải bằng phương pháp công nghiệp như trước đây nữa. Máy in 3D hiện nay là hình mẫu thô sơ của việc chế biến vật chất bằng phương pháp tin học. Sau này người ta sẽ tìm ra những phương pháp kỳ diệu và tiện lợi hơn nhiều. Nếu ngày xưa người ta dùng các trạm ngựa để chuyển thư tín, dùng bồ câu hoặc chim nhạn để chuyển thông tin đi xa, thì ngày nay điện thoại di động và các phần mềm OTT (Over The Top) như Viber, Zalo, Whatsapp…chuyển thông tin tiện lợi và miễn phí qua internet. Máy in 3D hiện nay chỉ là giai đoạn dùng ngựa để chuyển thư tín so với Viber khi so với những kỹ thuật tinh vi sau này để sản vật chất ngay trong văn phòng hay trong nhà ở.

Thời đại lượng tử cần phải thâm nhập sâu hơn vào đời sống con người, phải đi vào học đường, muộn nhất là ở cấp phổ thông trung học (cấp 3) để con người quen dần với khái niệm ảo, con người phải nhận thức và thực hiện được, rằng tâm có thể tạo ra vật chất, rằng tâm và vật đều là vô hạn, vô lượng, không cần phải tranh giành, không cần phải chém giết lẫn nhau.

Hầu Hi Quý công năng vẫn còn hạn hẹp, ông ta làm cho thức ăn, thuốc lá hay rượu xuất hiện, nhưng thật ra chỉ là di chuyển vật đã có sẵn từ một nơi xa xôi khác tới, và ông ta còn phải trả tiền. Nhưng tôi tin câu chuyện kể trong Kinh Thánh là có thật, chúa Giê Su thực sự đã biến ra bánh mì từ không khí và nước, đủ cho cả vạn tín đồ ăn no bên hồ Galilee 2000 năm trước.

Trong thời đại lượng tử, con người sẽ dùng thông tin và những phương pháp xử lý thông tin vô cùng tinh vi để tạo ra mọi thứ nhu cầu vật chất cho con người. Con người sẽ thực hiện được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản “Làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu” nhưng không phải bằng phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, mà bằng phương pháp tin học vì nhận thức được rằng vũ trụ là số (digital), cũng tức là thông tin, là duy thức.

Truyền Bình

Advertisement

About Duy Lực Thiền

Tổ Sư Thiền do cố hòa thượng Thích Duy Lực hướng dẫn
Bài này đã được đăng trong Bài viết. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

8 Responses to TÂM VÀ THỜI ĐẠI LƯỢNG TỬ

  1. Minh nói:

    Theo các tài liệu cổ xưa, thực sự là Đức Phật không diễn giải nhiều lắm về bản chất thực tại, mà Ngài chỉ chú trọng vào việc giúp chúng sanh nhận ra vạn pháp là vô thường, rằng vô minh dẫn đến khổ phiền, và tu tập để thoát khổ.

    Ngoài ra, có lẽ tư tưởng Nhân – Quả của Đức Phật mang dáng dấp của cơ học New Ton vậy ?
    Phải chẳng, tư tưởng Nhân – Quả trong Phật giáo chưa phải là tư tưởng mang tính triệt để như tính Không và Vô Thường?

    • Nhân quả chưa phải là Phật thừa, người thấu suốt Thập nhị nhân duyên tức lý nhân quả thì chứng quả Duyên Giác hay Bích Chi Phật, chưa tới Bồ Tát thừa, còn xa mới tới vô thượng Bồ Đề. Đối chiếu với khoa học thì chỉ mới ngang tầm cơ học Newton, chưa tới cơ học lượng tử. Đức Phật giảng nhân quả để phù hợp căn cơ của số đông người nhưng cũng có đề cập tối thượng thừa cho những người đủ căn cơ. Xem bài Công án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma.

  2. Minh nói:

    Làm sao để chúng ta tin rằng THỰC SỰ ngài thái tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ và thấu triệt vạn lẽ trong đời ?

    Có thể, thái tử Tất Đạt Đa sau 49 ngày thiền định ở gốc cây Bồ Đề đã trải qua được một trạng thái lâng lâng giống nhu người nghiện phê thuốc chẳng hạn, chưa đạt tới giác ngộ thì sao?

    Vấn đề là có 2 câu hỏi :
    1. Giác ngộ (Niết Bàn) có tồn tại thật không?
    2. Nếu tồn tại thật thì có thật là thái tử Tất Đạt Đa đã đạt tới trạng thái đó? Làm thế nào để người đời sau tin một cách chắc chắn rằng đã có người (thái tử Tất Đạt Đa) đã đạt tới trạng thái đó, để mà người đời sau yên tâm tu tập, chứ không còn hoang mang băn khoăn là liệu có đang theo đuổi 1 vọng tưởng không có thật.

    • Thích Ca, các vị Tổ Sư và các thiền sư kiến tánh tự mình chứng ngộ được Tâm. Tâm là một thực thể tuy vô hình trống rỗng nhưng có công dụng. Vũ trụ vạn vật mà chúng ta đang thấy đang sống là công dụng của Tâm. Từ xưa đến nay riêng tại TQ cũng đã thông kê được hơn 5000 người chứng ngộ. Vật lý lượng tử hiện nay cung cấp những bằng chứng khoa học rất xác thực để chúng ta tin. Các nhà đặc dị công năng cũng giúp một phần bằng thực nghiệm. Ngoài ra các vị Tổ Sư cũng để lại chút ít bằng chứng để làm tin, ví dụ nhục thân bất hoại của Huệ Năng, Hám Sơn, Đơn Điền hiện đang thờ ở chùa Nam Hoa TP Thiều Quan tỉnh Quảng Đông.

  3. Minh nói:

    Như vậy, đến giờ chúng ta chấp nhận với nhau rằng có 1 trạng thái Niết Bàn thực sự, tức một trạng thái tâm thức giải thoát khỏi vô minh, qua đó giải thoát khỏi khổ – giải thoát khỏi vọng tưởng, giác ngộ được thực tại của vạn pháp và đạt tới viên mãn vĩnh viễn.

    Trên cơ sở thừa nhận trạng thái đó là có thật, thì ta hãy thử diễn giải tiến trình qua hình thức quy nạp tưởng tượng giả định như sau:

    – Chúng ta quan sát một con mèo mướp soi gương. Thấy ảnh của mình trong gương, con mèo mướp xù lông nhe nanh, vì nó tưởng rằng nó đang chạm mặt với một đối thủ là 1 con mèo khác. Nhưng có một con mèo già khác đang nằm bên lò sưởi – một con mèo đã tu tập đầu óc vượt trên những con mèo thường khác – nó điềm tĩnh hiểu rằng con mèo mướp đang nhận thức sai thực tại, rằng con mèo trong gương chỉ là ảo, chỉ là cái hình ảnh phản chiếu mà thôi. Con mèo già cố gắng “nói” với con mèo mướp rằng con mèo trong gương kia là không có thật, đừng có sợ và đừng phí công xù lông nhe răng làm gì, vừa vô ích, lại vừa tốn sức. Tuy nhiên, dù con mèo già có tu tập thế nào đi chăng nữa, đầu óc nó cũng không thể vượt lên trên được ông chủ của nó – tức là chúng ta – những con người. Đối với con mèo mướp thì con mèo già được coi là bậc giác ngộ – vì con mèo già đã nhận thức được thực tại chính xác hơn con mèo mướp, nhưng con mèo già vẫn không thể nhận thức được như ông chủ của nó. Ông chủ của nó – tức con người – vừa có thể phì cười trước hành động ngây thơ của con mèo mướp khi cố xù lông trước gương, và đồng thời cũng vừa có thể gật gù khen con mèo già “tỉnh táo”, nhận biết được hình ảnh trong gương chỉ là ảo nên chẳng việc gì phải xù lông cả.

    – Như vậy, liệu rằng loài người chỉ là sản phẩm của sinh vật ở hành tinh khác chẳng hạn. Họ đã đến trái đất, “nuôi cấy” hoặc “tạo” ra loài người, và âm thầm quan sát con người – trong khi con người không biết đến sự tồn tại của họ. Và trong số những con người đó, có một người đã đạt được trạng thái tâm thức về vạn vật – tức là thái tử Tất Đạt Đa. Nhưng liệu rằng thái tử Tất Đạt Đa có thực là đã đạt tới trạng thái nhận thức toàn triệt, triệt để về thực tại chưa? Hay đó chỉ là trạng thái trung gian thôi (như ví dụ về con mèo già). Vẫn còn tồn tại trạng thái nhận thức cao hơn – đó chính là những sinh vật ngoài hành tinh kia – chính họ đã tạo ra loài người.

    • Dường như bạn lạc đường rồi ! Tâm giác ngộ không phải là một trạng thái tâm lý của bộ não. Nó vô hình vô thể, không thể khẳng định cũng không thể phủ định, nhưng nó bất nhị và có khả năng tạo ra vũ trụ vật chất. Trạng thái tâm lý của bộ não là một biểu hiện của nó nhưng nó không phải là trạng thái tâm lý kia. Chúng ta không nên chấp niết bàn là có thật hay không có thật. Chấp bên nào cũng là biên kiến, là tà kiến. Cũng không được chấp ở giữa. Toàn bộ kinh điển của Phật giáo rốt cuộc chỉ là phá chấp mà thôi.

  4. trần_nguyên nói:

    Hỏi trên đời có cái gọi là số mệnh hay không?
    Luận bàn về cuộc đời đức phật ,gạt bỏ tình tiết huyễn hoặc đức phật sinh ra đã biết đi biết nói mỗi bước đi để lại đóa hoa sen thì đức phật sinh ra đã có 5 tướng tốt và ngài a tư đà đã nhìn thấy ngài sau này sẽ trở thành bậc vĩ nhân ,và sự thật đã xảy ra như thế ,liệu có cái gọi là số phận định sẵn hay không?ngài s tư đà đã nhìn thấy được tương lai đức phật và sự thật xảy ra như thế ,nếu ngày đó đức phật không ra khỏi cung điện ,không chứng kiến cái khổ chúng sinh liệu ngài có đi cầu đạo?không ,số phận đã định sẵn nên khi giờ khắc đến sẽ xui khiến người bước chân ra ngoài (và sự thật trong cuộc đời chúng ta xảy ra nhiều chuyện giống như bị gì đó xui khiến) ,ngài cầu đạo ,đắc đạo giống như a tư đà đự đoán ,vậy đức phật cũng là xui theo số mệnh chứ ngài không làm ngược hay chống lại được.

    Gạt bỏ thời gian không gian có tồn tại hay không ,trong cuộc đời hư thật này có cái gọi là tương lai ,và ở nơi đó mọi sự mọi vật của hiện tại đã xảy ra rồi như a tư đà hay tô do đều dự đoán đúng chính xác (hay ngày nay cũng có nhiều người thấy được những việc trong tương lai) ,vậy là mọi việc đều đã được định trước sẵn liệu chúng ta có thể thay đổi được tương lai .như đức phật đã định trước ngài sẽ giác ngộ và thế là ngài giác ngộ ,nếu có ai đó nhìn thấy tương lai tôi sẽ chết trong già yếu bệnh tật như bao người liệu bây giờ tôi tu hành như đức phật có thể thành phật không?

    Lấy ví dụ đơn giản ai cũng biết 4 việc chắc chắn xảy ra cho con người là sinh lão bệnh tử ,liệu có thể thay đổi được điều đó không?ngay đức phật ngài cũng phải trải qua những điều đó .mọi thứ không có thật vạn vật duy tâm ,nếu sinh lão bệnh tử là do tâm khởi vậy có ai có thể dùng tâm khởi thay đổi được 4 điều đó ?

    Mọi thứ giống như định mệnh đã định sẵn cho chúng ta ,nhiều người phát tâm làm thiện giúp người nhưng cả đời phải khổ và còn gặp nạn ,nhiều người không làm gì vẫn sống khỏe gặp nhiều điều may như được ban ơn cho ,chẳng phải định số đã an bày và chúng ta không ai có thể thay đổi được?liệu có ai sinh ra đã có 5 tướng tốt như đức phật ,có ai được nhìn thấy tương lai sẽ là vỹ nhận ,nếu thấy được thì người đó chắc chắn sẽ đắc đạo vì mọi việc đã định sẵn rồi.

    Đức phật nói tâm mỗi người có bức tường vô minh ,bước qua được sẽ giác ngộ ,vậy người điên có thể giác ngộ không ?

    Người điện không có tâm ,vì thế họ không có niệm ,họ nhìn như không ,nghe như không ,vậy sao họ không giác ngộ được.

    Điều gì tạo ra người điên ?là nghiệt là nhận quả ,vạn vật duy tâm nhưng người điên không có tâm làm gì có tưởng thức?họ không có tâm không phát sinh niệm vậy nghiệt và nhân quả đối với họ sẽ ra sao?

    đó là chưa kể những người bình thường nhưng về sau điên loạn vậy họ sẽ như thế nào?

    • Cái mà người đời gọi là số mệnh, PG gọi là nghiệp. Nghiệp là do chúng sinh tự tạo chứ không phải trên trời rớt xuống. Nghiệp là do tác động của luật Nhân Quả. Nhưng nhân quả cũng chỉ có trong chiêm bao. PG cũng không có thiết lập chân lý. Chân lý cũng chỉ là do con người tưởng tượng. Quá khứ, hiện tại, tương lai cũng chỉ là tưởng tượng, cả ba thời đồng thời tồn tại trong A-lại-da thức. Bạn nói người điên không có tâm vì chưa hiểu tâm là gì. Tâm là 8 thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt-na, a-lại-da) chứ không phải chỉ là ý thức. Giác ngộ là phá vỡ vô minh, nhưng vô minh tuyệt đối cần thiết để nhận thức thế giới. Nếu không nhận thức được tam giới thì tâm hóa ra vô dụng sao ? Tóm lại, chúng ta suy nghĩ thế nào cũng không hoàn toán đúng, cũng có mâu thuẫn, chỉ còn cách chấm dứt suy nghĩ mà thôi.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s