“ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM” LÀ NGHĨA THẾ NÀO ?

Câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” 應無所住而生其心 trích từ kinh Kim Cang, nhờ nghe câu này mà anh tiều phu Huệ Năng hoát nhiên tỏ ngộ, sau đó có cơ hội làm bài kệ “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai” 菩提本無樹 明鏡亦非台 本來無一物 何處惹塵埃 trình cho ngũ tổ Hoằng Nhẫn của Thiền tông và được truyền y bát để trở thành tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa. Lục Tổ và các môn đồ làm cho Thiền tông đại hưng thịnh, thiền sử ghi nhận có hơn 5000 người kiến tánh.

Kinh Kim Cang, tên đầy đủ là Kim cang (cương) bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra) là một bộ kinh liễu nghĩa (tức nói ý nghĩa rốt ráo chứ không phải nghĩa phương tiện, do đó không dễ hiểu đối với người bình thường). Có ít nhất 6 bản dịch từ Phạn sang Hán trong đó bốn dịch giả người Ấn (Cưu Ma La Thập, Đạt Ma Cấp Đa, Chân Đế -真諦Paramartha- và Bồ Đề Lưu Chi) và hai dịch giả người Hoa, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh. Trong đó phổ biến nhất là bản dịch của Cưu Ma La Thập (鳩摩羅什 Kumārajīva 344-413, dịch vào đời Diêu Hưng nước Hậu Tần trong thời kỳ các dị tộc xâm chiếm Trung Quốc sau nhà Tây Tấn, trước sau dựng lên tất cả 16 nước, thời kỳ mà sử gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa (năm dị tộc xâu xé nước Trung Hoa).

Nội dung kinh là cuộc đàm luận giữa Phật và tôn giả Tu Bồ Đề, bày tỏ ý nghĩa thù thắng, rốt ráo của Phật pháp . Bộ kinh kết luận bằng bài kệ :

一切有爲法 Nhất thiết hữu vi pháp

如夢幻泡影 Như mộng huyễn bào ảnh

如露亦如電 Như lộ diệc như điện

應作如是觀 Ưng tác như thị quán

Tất cả các pháp hữu vi tức là pháp có sinh có diệt, đều như mộng huyễn, như bọt nước, như hạt sương mong manh hoặc như điện chớp, tức không có gì thật sự vững chắc, nên xem xét nhận thức như thế.

Ý  kinh nói rằng vũ trụ vạn vật chỉ là ảo ảnh, không phải thật, do đó không nên chấp trước cho là thật. Ngày xưa khoa học chưa phát triển nên trong nguyên tác, các bản dịch và luận giải đều chưa có dẫn chứng khoa học, nên ý nghĩa của câu chủ đề trên còn khá mơ hồ. Ngày nay chúng ta có điều kiện hơn, vì khoa học đã phát triển, nên có điều kiện giải thích cụ thể rõ ràng hơn.

Bây giờ chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của câu chủ đề :

應無所住而生其心 Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm

Ưng vô sở trụ : Đây là câu bàng thái cách (subjonctif) với nghĩa cần phải không có chỗ trụ, nếu chúng ta dùng tiếng Pháp là một ngôn ngữ rất tinh tế để diễn đạt thì có thể dịch : Il faut que vous soyez nonlocal. Hoặc tiếng Anh : You must be nonlocal.

Nhi sinh kỳ tâm : thì cái tâm ấy mới xuất hiện: pour que cet esprit apparaisse. Hoặc tiếng Anh : for  the appearing of this mind. Cái tâm ấy tức là tâm giác ngộ.

Thế nào là không có chỗ trụ, tại sao không thể có chỗ trụ ? Đây là chỗ cần dùng khoa học để dẫn chứng. Phật pháp nói rằng các pháp đều là ảo hóa. Mà sự ảo hóa cần đến chuyển động không thể ngừng. Ví dụ để có sự xuất hiện của nguyên tử, electron phải chuyển động vòng quanh hạt nhân rất nhanh và không ngừng. Để cho cuộc sống trong phim sống động như thật, máy chiếu phim phải chạy đều đều không thể ngừng. Các vật thể vi mô hay vĩ mô đều phải chuyển động không ngừng. Hành tinh chuyển động chung quanh mặt trời, vệ tinh như mặt trăng chuyển động chung quanh hành tinh, thái dương hệ chuyển động trong ngân hà, các thiên hà chuyển động không ngừng trong vũ trụ. Tâm thức của con người chúng ta cũng luôn luôn vận động, nhất niệm vô minh cứ nối tiếp nhau thành dòng tâm thức vô tận. Tất cả sự chuyển động đó tạo ra thế giới mà Phật pháp đã tóm tắt trong danh xưng Ngũ Uẩn五蘊 hay còn gọi là Ngũ Ấm五陰, đó là Sắc色,Thọ受,Tưởng想, Hành行,Thức識 .Đó là năm yếu tố tạo thành thế giới trong đó Sắc là vật chất, Hành là chuyển động, Thọ là cảm giác, Tưởng là nghĩ ngợi, tưởng tượng, Thức là nhận biết. Phật pháp nói rằng Ngũ Uẩn Giai Không五蕴皆空 Năm yếu tố cấu thành thế giới đều không có thật nên không thể có chỗ trụ.

Nguyên lý vô sở trụ đã được Heisenberg nhận thức thành nguyên lý bất định (principle of uncertainty) trong vật lý học. Vô sở trụ còn được nhận thức thành định lý bất toàn (Theorem of incompleteness) trong toán học do Kurt Godel phát hiện. Vô sở trụ còn hiển hiện trong nhiều lỗ hổng không thể lấp đầy của Sinh vật tiến hóa luận do Charles Darwin đề xướng. Xem loạt bài về

SỰ KẾT THÚC CỦA KHOA HỌC

Khoa học lượng tử tương quan (RQM : Relational Quantum Mechanics) ngày nay cũng đi đến kết luận rằng đã đến lúc chúng ta cần xét lại hình ảnh của thế giới bên ngoài! :

Thực tế khách quan không phải là một thực tế tuyệt đối cũng không phải là một thực tế độc lập mà chỉ là một thực tế tương quan.

Điều này có ý nghĩa cụ thể như thế nào ? Có nghĩa rằng vật không có thật, nhưng chúng ta vẫn thấy có vật, vì cái mà chúng ta thấy là sự tương tác giữa các giác quan của chúng ta (lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, não bộ) với mối quan hệ (tương quan) của các cấu trúc ảo của vật chất. Cấu trúc ảo đó là gì ? Từ những hạt ảo là quark và electron, cấu trúc thành proton, neutron, hạt nhân nguyên tử, nguyên tử, phân tử và cuối cùng là thế giới, sinh vật, con người. Vật thì không thật sự hiện hữu, nhưng những hạt ảo làm thành cấu trúc ảo, và chúng ta thấy và tương tác với mối quan hệ giữa các cấu trúc ảo đó.

Tóm lại vì bản chất của thế giới là ảo hóa, là chuyển động nên không thể trụ, không thể dừng lại, kể cả chết cũng không dừng lại, vì thức sẽ chuyển qua một đời sống khác gọi là tái sinh chuyển kiếp, vì bản chất là không nên không có chỗ trụ. Kinh nói :

若以色見我  Nhược dĩ sắc kiến ngã

以音聲求我  Dĩ âm thanh cầu ngã

是人行邪道  Thị nhân hành tà đạo

不能見如來   Bất năng kiến Như Lai

Nếu lấy vật chất để thấy ta (ta là Như Lai) nghĩa là hình dung ta dưới hình thức vật chất với 32 tướng tốt, phương phi tuấn tú, sức mạnh vô địch v.v…Hoặc lấy âm thanh để cầu ta, nghĩa là dùng tiếng nói để tán thán, cầu khấn ta, hay dùng âm nhạc để diễn tả những phẩm đức của ta trong những bài thánh ca tuyệt hay. Thì người đó đã đi sai đường, không thể thấy được Như Lai, nghĩa là không thể giác ngộ. Tóm lại không thể trụ ở các pháp trần.

Bản chất của thế giới là vô sở trụ, nghĩa là không có một điểm cố định nào để dừng nghỉ. Tất cả những chỗ an tĩnh dừng nghỉ đều chỉ là ảo tưởng. Khoa học ngày nay đã hiểu được điều này. Ví dụ một thiền sư đang ngồi tham thiền, liệu thân ông ta có chuyển động không ? Bên trong thân, máu đang lưu thông, nhiều tế bào chết đi, nhiều tế bào mới sinh ra, cơ thể đang tiến hành tiêu hóa, bài tiết, tăng trưởng, không lúc nào ngừng nghỉ. Tâm thức cũng không hề im lặng, nó đang quán tưởng, đang phiêu du qua vô số cảnh giới hay đang phát khởi nghi tình. Cả cái thân tứ đại ấy cũng chuyển động hỗn loạn theo chuyển động xoay tròn của địa cầu, theo chuyển động trên quỹ đạo chung quanh mặt trời, theo chuyển động của thái dương hệ trong ngân hà và theo sự chuyển động của ngân hà trong vũ trụ.

Vô sở trụ còn có nghĩa là khắp không gian và khắp thời gian, không hạn chế ở một chỗ nhất định nào trong không gian hoặc một thời điểm nào trong thời gian. Tính chất này, ngày nay khoa học gọi là nonlocality (bất định xứ). Hơn 2500 năm trước, Đức Phật đã chứng ngộ tính chất này, vì vậy mới có danh xưng Như Lai, danh xưng này cũng có nghĩa là bất định xứ, đồng thời tuyên thuyết Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Còn khoa học thì mãi đến thế kỷ 20 mới hiểu được qua hiện tượng vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Trên blog này, đã nói rất nhiều về hiện tượng này, nếu cần xem lại thì bấm vào đây :

KHẮP KHÔNG GIAN, KHẮP THỜI GIAN VÀ VÔ SỐ LƯỢNG CÓ Ý NGHĨA GÌ ?

Nhiều nhà khoa học nghĩ rằng tính chất bất định xứ chỉ xảy ra trong thế giới lượng tử, còn thế giới đời thường thì các vật thể đều có định xứ. Đó là một nhận thức hạn hẹp, nói hạn hẹp vì họ chỉ mới biết một mà chưa biết hai, họ chưa biết và chưa thấy vật thể cũng có tính chất bất định xứ như lượng tử. Điều này đã được các nhà đặc dị công năng như Trương Bảo Thắng và Hầu Hi Quý chứng tỏ một cách rõ ràng qua các sự kiện như : Trương Bảo Thắng đã dùng tâm niệm lấy sợi dây nịt đang mang trong lưng quần của một nhà xã hội học ngay lúc ông ta đang đăng đàn diễn thuyết chỉ trích đặc dị công năng. Anh cũng dùng tâm niệm lấy trái táo ra khỏi một thùng sắt mà nắp bị hàn kín. Hầu Hi Quý đã dùng tâm niệm lấy xăng từ Bắc Kinh đổ vào bình xăng của một chiếc xe hơi đang đậu ở suối Sa Cốc, cách đó khoảng 50 km. Những vật đó bản chất vẫn là ảo, là bất định xứ, nên có khả năng di chuyển tự do nếu hành giả có tâm lực đủ mạnh, không một lực nào níu kéo lại được dù đó là chiếc thùng sắt kiên cố.

Tính chất vô sở trụ ngày nay đã được khoa học ứng dụng vô cùng phổ biến với mạng internet và điện thoại di động thông minh (smartphone). Tất cả bài báo, thông tin, âm nhạc, phim ảnh…có thể đến với người sử dụng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, chỉ cần có sóng thích hợp như wifi, 3G, 4G, sóng vệ tinh v.v…Khoa học còn có tham vọng một ngày kia sẽ chuyển các vật thể đi khắp nơi bằng phương thức gọi là vô tuyến vận tải (télétransport) cũng giống như chuyển thông tin hiện nay. Tất cả đều dựa trên nguyên lý vô sở trụ. Từ bao đời nay, các vong linh, thần thức, tái sinh chuyển kiếp trong khắp tam giới đều bằng tốc độ của ý niệm, đều dựa trên nguyên lý vô sở trụ.

Thế nào là nhi sinh kỳ tâm ? Chữ sinh ở đây phải hiểu là xuất hiện chứ không phải sinh ra vì nó vốn đã có sẵn. Khi nào có đủ điều kiện thì nó xuất hiện. Tâm là vô sanh pháp nhẫn, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh như Bát Nhã Tâm Kinh đã nói. Giống như mặt trời bị mây che nên không nhìn thấy, khi nào mây tan thì mặt trời xuất hiện. Kỳ tâm có nghĩa là cái tâm ấy. Cái tâm ấy là tâm giác ngộ, tâm bất nhị. Bất nhị có nghĩa là không phải hai, không phải nhiều, cũng không phải một, tóm lại bất nhị là không có số lượng. Tại sao không có số lượng ? Vì tất cả vật đều là ảo. Một tấm ảnh ảo thì không có số lượng vì nó có thể biến thành vô lượng vô số tấm ảnh. Một vật thể cũng là ảo nên cũng không có số lượng. Hạt photon là ảo nên trong thí nghiệm của Nicolas Gisin năm 2008 tại Geneva, Thụy Sĩ, nó có thể xuất hiện ở hai vị trí khác nhau, cách nhau 18 km theo thiết lập của thí nghiệm. Còn trong thí nghiệm của Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow năm 2012, hạt photon xuất hiện ở 100.000 vị trí khác nhau. Như vậy số lượng vốn là không có thật, tùy ý ta muốn bao nhiêu cũng được. Trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh có kể câu chuyện để biểu thị tính vô lượng cũng như tính bất định xứ của không gian và thời gian, như sau:

Bấy giờ, Xá Lợi Phất nghĩ rằng:

– Sắp đến giờ ăn. Các Bồ Tát sẽ thọ thực ở đâu? Duy Ma Cật biết ý, nên nói rằng:

– Phật thuyết bát giải thoát. Nhơn giả đã thọ hành. Há có xen cái tâm muốn ăn mà nghe pháp ư! Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ cho ông được bữa ăn chưa từng có. Duy Ma Cật liền nhập chánh định. Dùng sức thần thông thị hiện cho đại chúng thấy một cõi phương trên, cách bốn mươi hai hằng sa quốc độ, có Phật Hương Tích thị hiện ở cõi Chúng Hương. Mùi hương cõi ấy bậc nhất, siêu việt mùi hương trời người của các cõi Phật mười phương. Cõi ấy chẳng có tên gọi nhị thừa. Chỉ có chúng đại Bồ Tát trong sạch, đang nghe Phật thuyết pháp. Sự vật trong đó, tất cả đều dùng hương làm thành. Lầu các, vườn tược cho đến đất kinh hành đều có mùi hương. Mùi hương của cơm lan tràn khắp mười phương thế giới. Lúc ấy, Phật cùng các Bồ Tát đang ngồi ăn. Có các thiên tử cùng một danh hiệu gọi là Hương Nghiêm, đều phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, cúng dường Phật và các Bồ Tát. Ðại chúng nơi cõi này đều thấy rõ cả.

Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát rằng:

– Các nhơn giả! Vị nào có thể đến thỉnh cơm của Ðức Phật ấy? Do e ngại sức oai thần của Văn Thù, nên cả chúng đều im lặng.

Duy Ma Cật nói:

– Này các nhơn giả! Chẳng tự hổ thẹn sao?

Văn Thù nói:

– Như lời Phật dạy, chớ khinh sơ học.

Khi đó, Duy Ma Cật chẳng rời chỗ ngồi. Trước mặt đại chúng hóa ra vị Bồ Tát tướng tốt rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả chúng trong hội, mà bảo rằng:

– Ông hãy đến cõi Phật Chúng Hương, bạch như lời tôi đây:

“Duy Ma Cật đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, và vô cùng cung kính tỏ lời hỏi thăm sự ăn ở hằng ngày, ít bệnh, ít phiền não, khỏe mạnh chăng? Mong được cơm thừa của Phật, đem về cõi Ta Bà bố thí làm Phật sự. Khiến kẻ ưa pháp tiểu thừa được vào đại thừa. Cũng khiến cho tiếng tăm của Như Lai ai cũng được nghe.”

Khi ấy, đại chúng trong hội đều thấy hóa thân Bồ Tát bay lên phương trên, đến cõi Chúng Hương đảnh lễ chân Phật và lập lại lời Duy Ma Cật như trên. Các đại sĩ cõi ấy thấy hóa thân Bồ Tát, tán thán việc chưa từng có, liền hỏi Phật:

– Thượng nhơn này từ đâu đến? Cõi Ta Bà ở chỗ nào? Thế nào gọi là kẻ ưa pháp tiểu thừa?

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Nơi phương dưới cách bốn mươi hai hằng sa cõi Phật, có thế giới Ta Bà là ngũ trược ác thế. Hiện có Phật Thích Ca, đang vì những chúng sanh ưa pháp tiểu thừa, diễn giảng Phật pháp. Ở đó, có vị Bồ Tát tên là Duy Ma Cật, trụ nơi giải thoát bất khả tư nghì. Vì đang thuyết pháp cho các Bồ Tát, nên sai hóa thân đến khen ngợi danh hiệu ta, và tán thán quốc độ này, khiến các Bồ Tát ấy tăng thêm công đức.

Các Bồ Tát hỏi:

– Vị đó như thế nào, sao có sức công đức vô úy hóa ra Bồ Tát thần túc như thế?

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Thần lực của Duy Ma Cật rất lớn. Thường sai hóa thân đến khắp cõi mười phương bố thí làm Phật sự để lợi ích chúng sanh.

Tức thì Hương Tích Như Lai dùng bát Chúng Hương đựng đầy cơm hương trao cho hóa thân Bồ Tát.

Khi ấy, chín triệu Bồ Tát kia đều nói:

– Chúng con muốn đến cõi Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca và muốn gặp Duy Ma Cật với các Bồ Tát cõi ấy.

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Ðược thôi! Nhưng phải thu nhiếp mùi hương của các ngươi. Chớ khiến chúng sanh cõi kia khởi lòng mê đắm. Lại nữa, hãy bỏ hình dạng của các ngươi. Chớ khiến những người cầu Bồ Tát thừa cõi kia sanh lòng hổ thẹn. Và các ngươi đối với cõi ấy chớ khởi tâm khinh chê mà tự chướng ngại. Tại sao? Mười phương quốc độ đều như hư không. Chư Phật vì muốn hóa độ những kẻ ưa pháp tiểu thừa, nên chẳng hiện cõi thanh tịnh ấy thôi.

Khi hóa thân Bồ Tát thọ lãnh bát cơm xong, cùng với chín triệu Bồ Tát thừa oai thần Phật và thần lực của Duy Ma Cật, ở nơi cõi ấy bỗng nhiên biến mất, chốc lát đến nhà Duy Ma Cật. Lúc đó, Duy Ma Cật liền hóa ra chín triệu tòa sư tử tốt đẹp như trước, các Bồ Tát đều an tọa.

Hóa thân Bồ Tát đưa bát cơm hương cho Duy Ma Cật. Mùi hương của cơm tỏa khắp thành Tỳ Da Ly và đại thiên thế giới. Các Bà La Môn và cư sĩ trong thành Tỳ Da Ly ngửi được mùi hương, thân tâm khoan khoái, tán thán việc chưa từng có.

Trưởng giả Nguyệt Cái cùng với tám mươi bốn ngàn người đến nhà Duy Ma Cật, thấy trong phòng đông đảo các Bồ Tát và những tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, đều rất vui mừng, đảnh lễ các Bồ Tát và đại đệ tử rồi đứng qua một bên.

Các địa thần, hư không thần và chư thiên cõi dục giới, sắc giới ngửi được mùi hương cũng đều đến nhà Duy Ma Cật.

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất và các vị đại Thanh Văn rằng:

– Các nhơn giả cứ tùy ý dùng cơm cam lồ của Như Lai, vì cơm nầy do đại bi sở huân, nếu có ý hạn lượng mà ăn thì chẳng thể tiêu.

Có hàng Thanh Văn lại nghĩ rằng:

– Cơm này ít thế làm sao đủ cho đại chúng ăn?

Hóa thân Bồ Tát nói rằng:

– Chớ dùng tiểu đức, tiểu trí của Thanh Văn mà đo lường vô lượng phước huệ của Như Lai. Nước bốn biển có thể hết, chứ cơm này thì vô tận. Dẫu cho tất cả mọi người đều ăn từng nắm cơm to bằng núi Tu Di, ăn mãi cho đến một kiếp cũng chẳng thể hết. Tại sao? Vì cơm dư của Người đầy đủ các công đức như vô tận giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v… thì ăn mãi cũng không thể hết được.

Vì thế, một bát cơm cho tất cả chúng trong hội ăn đều no đủ, mà cơm vẫn còn dư. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời người ăn cơm này rồi, thân thể an vui giống như các Bồ Tát ở cõi Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm, và từ lỗ chân lông phát ra mùi hương cũng như cây hương của cõi Phật Chúng Hương vậy.

Câu chuyện trên giống như truyện thần thoại bịa đặt, nhưng thí nghiệm của Nicolas Gisin và Maria Chekhova chứng tỏ rằng vật chất (hạt photon) quả thật có những tính chất giống như thế. Điều này khó tin đến nỗi, sinh thời Einstein đã không tin, cố bài bác bằng giả thuyết EPR, nhưng ngày nay các nhà khoa học đều biết rằng giả thuyết EPR là sai, lượng tử quả thật có những tính chất giống như trong kinh nói. Nhiều nhà khoa học sẵn sàng xây dựng lý thuyết trên cơ sở thế giới là ảo, vũ trụ là số, như chúng ta đã thấy David Bohm và Craig Hogan đã làm.

Tóm lại Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm biểu thị các tính chất vô sở trụ không thể tưởng tượng nổi của tâm giác ngộ. Đó là tâm như hư không vô sở hữu, nhưng đó lại là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, nó biểu thị rằng không gian, thời gian và số lượng đều là ảo hóa, đều là không có thật. Trong tâm giác ngộ đó thì không có chỗ trụ, không được chấp có, không được chấp không, không vừa có vừa không, cũng không chẳng có chẳng không. Tóm lại là không để lọt vào tứ cú. Tình trạng đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói để diễn tả được, mà phải chứng nghiệm, thiền Ấn Độ gọi là nhập niết bàn, hay chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Còn thiền Trung Hoa thì gọi là kiến tánh thành Phật.

Truyền Bình

About Duy Lực Thiền

Tổ Sư Thiền do cố hòa thượng Thích Duy Lực hướng dẫn
Bài này đã được đăng trong Bài viết. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

19 Responses to “ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM” LÀ NGHĨA THẾ NÀO ?

  1. Lan nói:

    Cảm ơn bác về bài viết rất hay. Cháu theo dõi hàng ngày website của bác và mong được bác chia sẻ nhiều hơn nữa.

    Chúc bác và gia đình luôn an lành !

  2. huynh nói:

    Chào bác Truyền Bình, cháu có thắc mắc: Trong Lời nói đầu bản kinh Lăng Nghiêm của Tâm Minh-Lê Đình Thám có viết:

    “TÍNH GIÁC là tính-chung của các loài vô-tình như cây, như đá và của các loài hữu-tình như động-vật; nhưng chỉ các loài hữu-tình, đặc-biệt các loài có trình-độ nhận-thức khá cao như loài người, mới có khả-năng chứng được TÍNH GIÁC và thành Phật-đạo. Do đó nên TÁNH GIÁC nơi các loài hữu-tình cũng gọi là Phật-tính.
    Các loài hữu-tình chủ-yếu là những cái tâm làm cho có sống, có cảm-giác, có nhận-thức, có suy-nghĩ, có ghi-nhớ, vân vân… Cái tâm là một sự vật nên bản-tính vẫn là TÍNH GIÁC như các sự vật khác.
    Khi học đạo và tu-chứng, tâm ấy có thể quan-sát TÍNH GIÁC nơi cây, nơi đá, hay quan-sát TÍNH GIÁC nơi tự-tâm; nhưng khi xét-nhận được TÍNH GIÁC nơi tự-tâm thì có phần dễ nhập một với TÍNH GIÁC hơn là khi xét-nhận được TÍNH GIÁC nơi cây nơi đá.”

    Còn cư sĩ Tịnh Liên-Nghiêm Xuân Hồng trong cuốn “Lăng Nghiêm ảnh hiện” nói các núi đá lâu năm cũng thành “tinh”, có cảm nhận nhưng mức độ yếu. Trong giới luật nhà Phật cũng cấm phá hoại cây cỏ vô cớ. Hay khoa học hiện đại cũng thí nghiệm chứng tỏ thực vật có cảm nhận.

    => cây cỏ, đất đá cũng có cảm nhận.

    Cháu thắc mắc:
    1. Cây cỏ có cảm nhận thì dễ hiểu, nhưng đất đá có cảm nhận thì khó hiểu?
    2. Cháu nghĩ cây cỏ, đất đá chỉ là Y báo của ta. Trong kinh Lăng Nghiêm phần “CHỈ TƯỚNG NGUYÊN-NHÂN CỦA THẾ-GIỚI SỰ-VẬT, HƯ-KHÔNG VÀ CHÚNG-SINH” nói rằng đất đá, nước, kim loại, cây cỏ chỉ là do tánh giác hiện ra: ……Thế đất kém thế nước, rút ra thành cỏ cây, vậy nên rừng-rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước……
    Rồi về sau kinh Lăng nghiêm lại nói:………..Nhân trong thế-giới có ngu-độn luân-hồi, điên-đảo về si, nên hòa-hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn-tưởng khô-cảo; vì vậy, nên có yết-nam vô-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; tinh-thần hóa làm Đất, Cây, Vàng, Đá, các loài đầy-nhẩy……….Vậy rốt cuộc Đất, Cây, Vàng, Đá là Y báo của ta hay là chúng sanh?
    3. Như lời của Tâm Minh-Lê Đình Thám thì chỉ có loài hữu tình mới có cơ hội chứng được TÁNH GIÁC thành Phật, còn loài vô tình như Đất, Cây, Vàng, Đá không chứng được TÁNH GIÁC. Vậy thì Đất, Cây, Vàng, Đá mãi mãi không chứng được tánh giác hay là có cơ hội “Tiến hóa” dần dần để chứng được tánh giác?
    4. Cháu xin ý kiến của chú về học thuyết tiến hóa của Darwin vì cháu nghĩ nếu thuyết tiến hóa đúng thì tức là các loài phải ĐẤU TRANH SINH TỒN, trong cùng loài cũng phải đấu tranh con nào thắng thì được truyền giống lại. Chế độ Đức Quốc Xã và Hít-le tàn sát chủng tộc khác để chỉ còn lại chủng tộc mình là ĐẤU TRANH SINH TỒN trong loài người, nếu vậy Chiến tranh, giết người, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu có gì là sai? Nếu vậy thì Đạo Phật TỪ BI đi ngược luật ĐẤU TRANH. Vậy thuyết Tiến hóa đúng hay sai? Liệu có phải con người có nguồn gốc từ khỉ?

    • Cám ơn bạn Nguyen Dinh Huynh đã có 3 phản hồi dài. Tôi xin trả lời chung như sau :
      Giác tánh cũng tức là Phật tánh (Phật có nghĩa là giác ngộ) hay còn gọi là Tâm. Tánh nghe, tánh thấy, tánh biết v.v… vốn là vô sinh vô thủy vô chung, nó hoàn toàn không có tùy thuộc vào con mắt, lỗ tai hay bộ não. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật đã chứng minh. Các nhà đặc dị công năng hiện đại cũng góp phần chứng minh sự thấy không phải bằng con mắt, có người thấy bằng mũi, có người thấy bằng nách. Giác tánh là sẵn có, không cần bất cứ cơ quan nào để nhận thức, Phật giáo gọi là bất nhị. Giác tánh cũng là tánh Không vì nó vô hình vô thể vô dạng. Nhưng tánh Không đó không phải là hư vô vì nó có năng lực ảo hóa tức biến không thành có. Nhưng để biến được như vậy thì nó phải phân lập thành hai thành phần đối lập mà triết học gọi là cặp phạm trù mâu thuẫn như : có và không, sáng và tối, vật chất và ý thức, thiện và ác, tốt và xấu, luân hồi và niết bàn, sinh và bất sinh, thánh và phàm, giác ngộ và mê lầm, đúng và sai v.v…Như vậy vũ trụ vạn vật hay nói gọn là vạn pháp đều là ảo. Vì nguồn gốc của vạn pháp đều là Tâm bất nhị nên trong Phật pháp có câu “Vạn pháp duy Tâm” tất cả các pháp đều là do Tâm tạo. Nhưng để biến được từ không thành có, phải có cơ chế biến hóa vô cùng phức tạp gọi là trùng trùng duyên khởi mà Phật giáo đã mô tả trong Thập nhị nhân duyên. Ngày nay khoa học cũng đã mô tả khá rõ ràng. Cái Không phải tạo ra các hạt ảo, những vật ảo là không có thật nhưng có tác dụng. Ví dụ kinh tuyến, vĩ tuyến chỉ là những đường tưởng tượng không có thật nhưng có tác dụng rất hữu ích để định vị. Chân không lượng tử là môi trường để cho các vật ảo phát sinh. Cái Không phải tạo ra số lượng vật chất là các hạt ảo như quark, electron, tạo ra không gian thời gian để làm nền tảng cho thế giới hiện hữu. Rồi các hạt ảo tạo ra cấu trúc ảo như nguyên tử, phân tử. Rồi dần dần tạo ra sinh vật, con người có bộ não phát triển. Bộ não người là một cấu trúc ảo có công năng tưởng tượng rất thần sầu. Nó phát sinh ra cái mà Phật giáo gọi là nhất niệm vô minh, liên tục thành dòng tâm niệm không ngừng nghỉ mà triết học gọi là ý thức, tư tưởng. Các cấu trúc ảo của vạn pháp nói chung, Phật giáo gọi là vô thủy vô minh. Gọi tên như thế vì đó thực chất là mê lầm không có bắt đầu, không có thực thể. Khoa học ngày nay đã nhận ra điều đó, các khoa học gia hàng đầu như Niels Bohr đã nhận ra (nhưng Einstein thì chưa nhận ra), họ hiểu vật chất không có thực thể, vật chất chỉ là do ý thức (nhất niệm vô minh) tạo ra. Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).
      Tóm lại vũ trụ vạn vật chỉ là ảo hóa, do nhất niệm vô minh tưởng tượng ra. Tất cả đều xuất phát từ Tâm hay Giác tánh, hay Phật tánh, hay Thượng Đế, Trời (rất nhiều danh xưng khác nhau nhưng tôi cho rằng đồng nghĩa). Duy Thức học mô tả nó rõ ràng nhất bằng 8 thức, cơ bản là A-lại-da thức. Tất cả sự phân biệt như : hữu tình vô tình, sinh tử niết bàn, tái sinh không tái sinh, ngộ hay mê v.v… đều chỉ là ảo tưởng. Cái ảo tưởng này Bát Nhã Tâm Kinh nói rất rõ : Không có sinh tử cũng không có hết sinh tử. Không có Khổ Tập Diệt Đạo. Các ông sư ngày nào cũng tụng kinh này nhưng thật ra rất ít người hiểu. Tất cả mọi sự phân biệt đều là tạm bợ không có thực chất, chỉ có ý nghĩa tương đối, chỉ dựa trên sự chấp ngã, chấp pháp. Những người quá cố chấp vào sự phân biệt tạm bợ là chưa hiểu pháp giới bình đẳng. Kinh Kim Cang cũng khuyên không nên cố chấp : “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”.

  3. vậy cho em hỏi tâm ta từ đâu có hay tâm đã có sẵng . còn tâm mà từ những thứ khác mà tạo ra thì đó là gì , và nó với tâm có sự liên kết gì với nhau . em cũng biết là tất cã điều là ko , từ cái ko đó là cái gì mà tạo ra cái tậm , hay tâm ta đã có sẵng . mong huynh chỉ dạy thêm

    • Long Thọ Bồ Tát nói “Tâm như hư không vô sở hữu” nghĩa là Tâm giống như hư không không có thật. Vì không có thật nên nó không có bắt đầu cũng không có kết thúc (vô thủy vô chung). Không có thật nhưng không phải là không có, Tâm là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, cũng là nguồn gốc của ý thức cá nhân của mỗi người người chúng ta. Vì Tâm không có thật nên tất cả mọi hiện tượng chỉ là vọng tưởng. Vũ trụ cũng không thể có bắt đầu, bởi vì trước Big Bang, ai dám nói là không có một vũ trụ khác ? Ngoài ra thuyết đa vũ trụ cũng nói rằng có vô số vũ trụ tồn tại song song với vũ trụ của chúng ta. Do đó chúng ta phải buông bỏ hết mọi khái niệm ( Ưng vô sở trụ) bởi vì không có khái niệm nào đúng cả. Bên phương tây cũng có người khám phá ra điều này, đó là Định lý bất toàn của Kurt Godel phát biều đầu tiên năm 1931 và chứng minh bằng toán học. Nhưng đa số nhân loại không hiểu hết ý nghĩa triết học của định lý này, nó tương tự như tông chỉ phá chấp trong Phật giáo. PG từng nói rằng “Tất cả những gì có thể nói ra đều không có nghĩa thật” Thích Ca trước khi nhập diệt từng tuyên bố rằng : “Trong suốt 49 năm qua ta chưa từng nói một chữ nào”. Tóm lại, chúng sinh mê muội đau khổ, đó là một thứ bệnh giả, PG là một thứ thuốc giả dùng để trị thứ bệnh giả đó. Hết bệnh rồi (giác ngộ) mới biết bệnh cũng không có thật mà thuốc cũng không có thật. Giá trị của thuốc chỉ là tương đối.

      • LÊ HỒNG LẮM nói:

        Tâm và Vật đếu có thật. Có cơ chế chuyển hoá lẫn nhau theo luật âm dương. Nếu không có thử đánh Huynh, Huynh có biết đau không. Chỉ có ý thức cá nhân của Huynh, của tôi và của tất cả chúng sanh mới là vọng tưởng.

      • Bạn muốn cho rằng có thật cũng được, đó cũng chỉ là “cho là” là ý tưởng cá nhân của bạn. Kinh Hoa Nghiêm nói Tất cả các pháp đều không có tự tính, kể cả thân tứ đại của chúng ta, kể cả các cảm giác của tiền ngũ thức (mắt tai mũi lưỡi thân thể) và của ý thức. Tâm đã gán ghép những tập quán lâu đời gọi là thế lưu bố tưởng cho vật. Giống như trong tin học, thực tế chỉ là dãy số 0 và 1 hàng hàng lớp lớp. Nhưng con chíp đã hoạt động để thay thế bằng màu sắc, đường nét, hình vẽ. con chữ…khiến chúng ta thấy trên màn hình là văn bản, hình ảnh, video. Chúng ta biết rõ chúng là ảo. Nhưng khi cái ảo đó phóng hiện ra không gian 3 chiều thì chúng ta không còn biết là ảo nữa, tưởng là thật.

  4. liem nói:

    Thua su.lam the nao de het phien nao?

    • Phiền não là do suy nghĩ. Suy nghĩ là vọng tưởng. Muốn hết phiền não thì ngừng suy nghĩ. Muốn ngừng suy nghĩ thì tham thiền, có thể tham một câu thoại đầu, chẳng hạn : “Sinh từ đâu tới, chết đi về đâu ?” Chỉ đề khởi câu thoại mà không cho lý giải. Cứ tham như vậy lâu ngày thì phát sinh nghi tình và có thể đưa tới giác ngộ. Nếu chưa giác ngộ thì ít nhất cũng không còn phiền não.

      • liem nói:

        Thua su. Con doc khong duoc va cung khong hieu. Boi vi Chu Viet la qua.

      • Phien nao la do suy nghi. Suy nghi la vong tuong. Muon het phien nao thi ngung suy nghi. Muon ngung suy nghi thi tham thien. Cach tham To Su Thien la de khoi mot cau thoai dau. Thi du “Khi chua co troi dat ta la cai gi?” Khong duoc ly giai, chi hoi va nhin, nhin vao cho khong co cho. Hay nghe them huong dan cua Thay Duy Luc : http://sonhaiquan.podbean.com/mf/web/ewh2qt/0050ThamTosuthien.mp3

      • liem nói:

        Con chan thanh cam ta loi chi day cua su.
        PS. 1 ) con da nghe loi khai thi cua su qua bang dia ma su vua goi Cho con.
        2 ). Lan toi. Neu su co chi bao con them dieu gi nua thi su cu Viet Theo cach dau tien ma su da phuc dap Cho con. (Tuc la co dau).
        3) su thong cam Cho con vi Chu Viet khong dau. Boi vi con khong biet su dung may.

  5. Nguyễn văn Cả nói:

    Kính mong giải nghĩa 2 mệnh đề sau:
    Nếu phật tự tâm tác thì giáo do ma chủ
    Nếu phật giáo tự do thì tâm ma tác chủ
    Thành tâm cảm ơn!
    Nam mô A Di Đà phật!

    • Phật là tâm bản nhiên giác ngộ vô sở trụ. Giáo là lời Phật dạy đã rơi vào nhị nguyên tương đối, không phải là thực tế mà chỉ là vọng tưởng nên nói do ma chủ. Lời của Phật nói chỉ là phương tiện, giống như chiếc bè tạm dùng để qua sông, qua được rồi thì phải bỏ chiếc bè. Ví dụ Phật nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nhưng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Phật lại nói Không có Khổ Tập Diệt Đạo, cũng không phải hết Khổ Tập Diệt Đạo. Tóm lại lời Phật nói chỉ là để phá chấp chứ không phải là chân lý. Nếu cố chấp cho rằng lời dạy của Phật (Giáo) là chân lý, thì đó là ma tác chủ. Phật chỉ dạy phá chấp chứ Phật không có kiến lập chân lý.

    • liem nói:

      Thua su . Theo nhu hoa thuong Tinh Khong noi : phat giao khong phai la mot ton giao. Ma la not mon giao duc . Boi vi Theo y Ngai : ton giao thuong la me tinh . Vay theo y su giai thich cau noi nay nghia la sao? Con cam on su .

      • Nếu ta xem lịch sử giáo dục thế giới thì dù ở Châu Âu hay Châu Á, các tôn giáo đều có can dự rất nhiều vào nền giáo dục của xã hội. Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Khổng giáo, đều như thế. Giáo dục của tôn giáo và giáo dục phổ thông của chính quyền luôn song hành, xưa cũng thế mà nay cũng vậy. Phật giáo cũng có đầy đủ các yếu tố của một tôn giáo như có giáo chủ, có giáo hội, có tín đồ, tín điều, sự thờ phượng. Phật giáo chỉ khác các tôn giáo khác là hướng tới sự giác ngộ, không kiến lập chân lý và phá chấp thật. Giác ngộ đòi hỏi một sự nhận thức về khoa học rất cao mà trình độ khoa học hiện đại của nhân loại cũng chưa đạt tới. Ví dụ phải nhận thức được tính chất không thật của không gian, thời gian, số lượng; phải ngộ các pháp không có tự tính, vũ trụ vạn vật là do tâm tạo. Einstein là người nêu ý kiến rằng chỉ có Phật giáo đáp ứng được các yêu cầu của khoa học hiện đại, tức là cũng đã hiểu khá nhiều về PG nhưng cũng chưa hiểu hết. Einstein chưa hiểu các pháp không có tự tính. Video sau đây chứng tỏ : https://www.youtube.com/watch?v=E9RYW5_TGk0

  6. Nguyễn Văn Cả nói:

    Đạo phật là đạo Tự Chứng hãy Chí Tâm Thọ Trì Niệm Phật Vãng Sanh khi đủ Nhân Duyên Phật Tánh hiện tiền tức Giác Ngộ hay nói cách khác tự hiểi Nhi Sinh Kỳ Tâm!
    Nam Mô A Di Đà Phật!

  7. Nguyễn Văn Cả nói:

    Đạo phật là đạo Tự Chứng hãy Chí Tâm Thọ Trì Niệm Phật Vãng Sanh khi đủ Nhân Duyên Phật Tánh hiện tiền tức Giác Ngộ hay nói cách khác tự hiểu Nhi Sinh Kỳ Tâm!
    Nam Mô A Di Đà Phật!

Bình luận về bài viết này