Bảng tổng hợp mp3 giải đáp của Thầy Duy Lực và Mục lục

Bảng Tổng hợp các danh mục Audio mp3 Giải đáp của Thầy Duy Lực

Bảng Tổng hợp 2, Danh mục liệt kê các công bố của Duy Lực Thiền (tiếp)

Kể từ ngày 18-09-2017 phần thuyết giảng trực tiếp của Thầy Duy Lực đã được chuyển về trang Duy Lực Mp3 Mới

Thông Báo 28-02-2014  (thông báo này chỉ còn là dấu tích lịch sử, không còn khả dụng)

Do Microsoft đã có nhiều thay đổi về cách sử dụng Skydrive (nơi chứa các files âm thanh thuyết pháp của thầy Duy Lực) mà nay đã đổi tên thành OneDrive, nên muốn download các files âm thanh đó, không thể bấm trực tiếp vào các files cụ thể liệt kê trên trang Duy Lực Thiền, quý vị chỉ cần nhớ số thứ tự của file muốn download, hãy bấm vào hàng chữ : Mở thư mục âm thanh … …

Nó sẽ mở ổ đĩa OneDrive trên mạng theo số thư mục có ghi trên hàng chữ nói trên. Xin nhớ một điều, mỗi thư mục chứa tới 100 files trong khi mỗi bảng liệt kê trên Duy Lực Thiền chỉ kê 50 files. Do đó cần thiết phải nhớ số thứ tự thì mới dễ tìm. Bảng kê trên trang Duy Lực Thiền chỉ còn tác dụng nêu đại ý của file âm thanh với chữ có dấu nên dễ đọc. Còn bảng liệt kê trên OneDrive là tên file, chữ không có dấu nên khó đọc hơn. Nhớ số thứ tự thì dễ dàng tìm đúng file mình muốn download. Bấm vào tên file để download.

Quý vị có thể dùng computer, laptop, máy tính bảng hay smartphone đều có thể download được. Tốt nhất là dùng smartphone, vì nó là một phương tiện gần gũi nhất với mỗi người và rất tiện lợi để nghe bất cứ lúc nào rảnh rỗi. Tuy là files âm thanh nhưng một số files có hình của các nhân vật được đề cập, quý vị có thể thấy được hình khi nghe bằng máy nghe nhạc trên điện thoại.

Kể từ ngày 18-09-2017 phần thuyết giảng trực tiếp của Thầy Duy Lực đã được chuyển về trang Duy Lực Mp3 Mới.

Tổng kết Kinh Sách do Hòa thượng Duy Lực dịch và trứ tác

01 Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Giải

02 Bá Trượng Ngữ Lục

03 Bá Trượng Quảng Lục

Bá Trượng Quảng Lục và Ngữ Lục – Hoài Hải Thiền Sư mp3

04 Bửu Tạng Luận – Tăng Triệu

Bửu Tạng Luận mp3

05 Cội nguồn truyền thừa và Phương pháp tu trì của Thiền tông

Cội Nguồn Truyền Thừa và Phương Pháp Tu Trì Thiền Tông mp3

06 Công Án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma

Công Án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma mp3

07 Đại Huệ Ngữ Lục

Đại Huệ Ngữ Lục mp3

08 Đại Thừa Tuyệt Đối Luận – Nguyệt Khê Thiền sư

Đại Thừa Tuyệt Đối Luận mp3

09 Danh từ Thiền Học – Ngữ vựng Phật Học

10 Đường lối thực hành Tham Tổ Sư Thiền- Duy Lực

Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền mp3

11 Duy Lực Ngữ Lục Quyển Thượng

Duy Lực Ngữ Lục Quyển Thượng Phần 1 mp3

Duy Lực Ngữ Lục Quyển Thượng Phần 2 mp3

12 Duy Lực Ngữ Lục Quyển Hạ

Duy Lực Ngữ Lục Quyển Hạ Phần 1 mp3

Duy Lực Ngữ Lục Quyển Hạ Phần 2 mp3

13 Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh

Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết mp3

14 Góp nhặt lời Phật, Tổ và Thánh Hiền

Góp nhặt lời Phật, Tổ và Thánh Hiền mp3

15 Truyền Tâm Pháp Yếu – Hoàng Bá Hy Vận

Truyền Tâm Pháp Yếu- Hoàng Bá Hy Vận mp3

16 Kinh Kim Cang

Chư Kinh Tập Yếu : Kinh Kim Cang, Bát Nhã Tâm Kinh mp3

17 Kinh Lăng Già

Kinh Lăng Già mp3

18 Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Kinh Thủ Lăng Nghiêm mp3

19 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Yếu chỉ

Chư Kinh Tập Yếu (Đầy Đủ) : Kim Cang, Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn, Duy Ma, Viên Giác, Triệu Luận mp3

20 Kinh Viên Giác 

Kinh Viên Giác mp3

21 Lâm Tế Ngữ Lục 

Đường Lối Thực Hành Tổ Sư Thiền- Lâm Tế Ngữ Lục 1,2,3 mp3

22 Nam Tuyền Ngữ Lục

Nam Tuyền Phổ Nguyện Ngữ Lục mp3

23 Pháp Bảo Đàn Kinh- Lục Tổ Huệ Năng

Pháp Bảo Đàn Kinh- Lục Tổ Huệ Năng mp3

24 Phật Pháp với Thiền Tông – Duy Lực

Phật Pháp với Thiền Tông- Thiền Sư Đại Huệ mp3

25 Tâm Linh và Khoa Học trong Phật Pháp

Tâm Linh và Khoa Học trong Phật Pháp mp3

26 Tham Thiền Cảnh Ngữ – Bác Sơn Hòa thượng

Tham Thiền Cảnh Ngữ – Bác Sơn Hòa Thượng mp3

27 Tham Thiền Phổ Thuyết- Lai Quả Thiền Sư

Tham Thiền Phổ Thuyết – Thiền Sư Lai Quả mp3

28 Thiền Thất Khai Thị Lục – Lai Quả Thiền Sư

Thiền Thất Khai Thị Lục- Thiền Sư Lai Quả mp3

29 Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải- Trung Phong Hòa Thượng

30 Triệu Luận Lược Giải – Tác giả Tăng Triệu, Lược giải Hám Sơn

Triệu Luận Lược Giải – Tăng Triệu -Hám Sơn Chú Giải mp3

31 Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 – Duy Lực

Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 mp3

32 Yếu chỉ Kinh Hoa Nghiêm

33 Yếu chỉ Phật pháp – Duy Lực

34 Yếu chỉ Trung Quán Luận – Long Thọ Bồ Tát

Chư Kinh Tập Yếu (Đầy Đủ) : Kim Cang, Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn, Duy Ma, Viên Giác, Triệu Luận mp3

Danh Sách Bài Viết chính của Blog Duy Lực Thiền

1 TÁNH KHÔNG TRONG PHẬT GIÁO

2 TẠI SAO TÂM LÀ KHÔNG LẠI CÓ VÔ SỐ CÔNG DỤNG ?

3 Phật giáo hiểu biết gì về thế giới ?

4 Thiền và Sức khỏe

5 THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN PHẬT GIÁO

6 Sự Thật là gì ?

7 Liễu nghĩa của “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

8 ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ LÀ AI ?

9 Lời mở đầu

10 THỜI-KHÔNG LÀ GÌ ?

11 Thế giới ta đang sống là ứng dụng của Tâm bất nhị

12 LỰC HỌC THÍCH CA ĐỐI CHIẾU VỚI CƠ HỌC NEWTON VÀ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI CỦA EINSTEIN

13 ĐẶC ĐIỂM CỦA BLOG DUY LỰC THIỀN

14 Cốt tủy của Phật pháp

15 Khi Vật lý gõ cửa Bản thể học

16 Lục căn, lục trần, lục thức = 18 giới

17 Thế lưu bố tưởng và các hiện tượng lạ thường

18 Tông chỉ chung của Đạo Phật là phá chấp

19 TẬP QUÁN (THÓI QUEN) CÓ Ý NGHĨA THẾ NÀO ĐỐI VỚI VŨ TRỤ VẠN VẬT ?

20 Hướng dẫn tìm kiếm

21 AI LÀ NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI ?

21 Bis PHẬT PHÁP LÀ KHOA HỌC TÂM LINH CÓ ĐÓNG GÓP LỚN CHO  NHÂN LOẠI

22 CHÚNG TA CÓ THỂ HOÀN TOÀN DỰA VÀO KHOA HỌC CHĂNG ?

23 NIẾT BÀN VÀ CHÁNH BIẾN TRI

24 CON NGƯỜI CÓ THỂ DU HÀNH TRONG THỜI GIAN CHĂNG ?

25 Từ David Bohm đến Kinh Lăng Nghiêm

26 TỨ PHÁP GIỚI CỦA KINH HOA NGHIÊM

27 Ý NGHĨA CỦA BẤT NHỊ TRONG PHẬT GIÁO

28 KHẮP KHÔNG GIAN, KHẮP THỜI GIAN VÀ VÔ SỐ LƯỢNG CÓ Ý NGHĨA GÌ ?

29 NỘI DUNG GIÁC NGỘ TRONG PHẬT GIÁO

30 TÍNH VÔ THƯỜNG CỦA CÁC PHÁP

31 Thiền sư và Nhà khoa học

32 PHÁP GIỚI BÌNH ĐẲNG

33 ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO CHO HẠNH PHÚC NHÂN LOẠI

34 PHẬT PHÁP VÀ ĐẶC DỊ CÔNG NĂNG

35 VẠN PHÁP DUY THỨC CÓ Ý NGHĨA GÌ ?

36 Ý NGHĨA RÕ RÀNG CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH

37 SỰ KẾT THÚC CỦA KHOA HỌC

38 SỰ KẾT THÚC CỦA VẬT LÝ HỌC

39 SỰ KẾT THÚC CỦA SINH VẬT TIẾN HÓA LUẬN

40 SỰ BẮT ĐẦU CỦA KHOA HỌC TÂM LINH

41 THẦN THÔNG CÓ THẬT HAY KHÔNG ?

42 CHỐT LẠI CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC

43 Ý NGHĨA CỦA THỜI GIAN

44 NHỮNG KHÁI NIỆM ĐẶC THÙ CỦA PHẬT GIÁO

45 THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO

46 MỘNG VÀ THỰC KHÔNG DỄ PHÂN BIỆT

47 “ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM” LÀ NGHĨA THẾ NÀO ?

48 Tìm hiểu về Tịnh Độ Tông

49 TU HÀNH THEO PHẬT PHÁP LÀ THẾ NÀO ?

50 ĐIỀU GÌ CHỨNG TỎ KHÔNG GIAN CHỈ LÀ ẢO TƯỞNG, KHÔNG PHẢI THẬT ?

51 THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ

52 Amit Goswami- Vật Lý Lượng Tử Nói Gì Về Bản Chất Của Thực Tại?

53 ĐIỀU GÌ CHỨNG TỎ SỐ LƯỢNG VẬT CHẤT LÀ ẢO KHÔNG PHẢI THẬT ?

54 CÁC THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO TẠI ẤN ĐỘ

55 CÁC DẠNG THỨC THÔNG TIN

56 TẠI SAO CON NGƯỜI KHÓ GIÁC NGỘ ?

57 PHẬT PHÁP VÀ THÁM HIỂM KHÔNG GIAN

58 SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA VẬT LÝ VÀ TÂM LÝ

59 ĐIỀU GÌ CHỨNG TỎ THỜI GIAN CHỈ LÀ ẢO ?

60 THÔNG ĐIỆP CỦA PHẬT GIÁO

61 VẬT CHẤT, NĂNG LƯỢNG CŨNG LÀ THÔNG TIN

62 NGŨ THỪA PHẬT GIÁO và TRƯỜNG A-LẠI-DA THỨC

63 BÀN THÊM VỀ CHÁNH BIẾN TRI

64 TRI THỨC CỦA NHÂN LOẠI ĐÃ TIẾN TỚI ĐÂU ?

65 MIỀN TẦN SỐ A-LẠI-DA THỨC

66 AI QUYẾT ĐỊNH THẾ GIỚI ?

67 TÂM VÀ VẬT TRONG PHẬT PHÁP

68 DANH VÀ SẮC ĐỀU LÀ GIẢ DANH

69 Phật giảng giải cho Ca Diếp về Thế Lưu Bố Tưởng

70 THẾ GIỚI LÀ DO THÓI QUEN TÂM LÝ TẠO RA

71 THUYẾT KIÊN BẠCH ĐỒNG DỊ CÓ Ý NGHĨA THẾ NÀO ?

72 TÂM VÀ THỜI ĐẠI LƯỢNG TỬ

73  ẢO VÀ THẬT

74 NGUYÊN LÝ HÌNH THÀNH TAM GIỚI

75 TRÒ ẢO THUẬT CỦA TÂM

76 ĐỐI CHIẾU VẬT LÝ VŨ TRỤ VÀ PHẬT PHÁP

77 CÁI TA THẬT RA LÀ CÁI GÌ ?

78 PHẬT GIÁO CÓ THỂ HƯỚNG DẪN GÌ CHO KHOA HỌC VÀ NHÂN LOẠI ?

Danh Sách Bài Viết phụ (Nhà sau) của Blog Duy Lực Thiền

1 Cầu bất đắc khổ

2 Giới thiệu chuyên mục Nhà sau

3 Nữ nhân thị lão hổ

4 Sống khổ : Thiên tai, Sóng thần Nhật Bản

5 Đăng Biện Giác Tự Thơ Vương Duy

6 Sống khổ : “Tôi không thể chịu đựng nổi cuộc sống” – Dalida

7 OÁN TẮNG HỘI KHỔ : ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA (DEVADATTA)

8 ÁI BIỆT LY KHỔ : HÒN VỌNG PHU VÀ MẠNH KHƯƠNG NỮ

9 Mối “vạn cổ sầu” của các nhà thơ

10 ĐÓN XUÂN NÀY NHỚ XUÂN XƯA

11 Chuyến viếng thăm chùa Cao Mân, Trung Quốc của Thầy Duy Lực

12 VĂN HÓA MÍNH ĐÀM

13 CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG VÀ THẾ GIỚI ẢO

14 CUỘC ĐỜI LÀ ẢO MỘNG

15 NGÔI LÀNG BÌNH YÊN

16 TRƯƠNG BẢO THẮNG – LẤY TRÁI TÁO RA KHỎI THÙNG SẮT BỊ HÀN KÍN

17 HẦU HI QUÝ – PHỤC NGUYÊN CHIẾC ĐỒNG HỒ TAY BỊ ĐẬP BẸP

18 TRƯƠNG BẢO THẮNG – DÙNG THẤU THỊ TÌM THẤY QUẢ VỆ TINH BỊ CHÌM DƯỚI ĐÁY SÔNG

19 HẦU HI QUÝ – LÀM CÁ TƯƠI BỐC MÙI- LẤY XĂNG TỪ KHOẢNG CÁCH 50KM- BẤT ĐỊNH XỨ

20 HẦU HI QUÝ – ĐẦU BỊ CHÉM ĐỨT NGƯỜI VẪN SỐNG- SÚNG BẮN KHÔNG BỊ THƯƠNG- THẤU THỊ

21 TRƯƠNG BẢO THẮNG – DÙNG THẤU THỊ TÌM THẤY CON BÒ BỊ CHÌM DƯỚI LỚP BĂNG DÀY

22 HẦU HI QUÝ- Tác động người khác, biến ra thuốc lá và rượu, dùng tâm niệm lấy chiếc đồng hồ cho xuyên qua tường

23 LIÊU VĂN VĨ – NHẬN THỨC VỀ NHÂN THỂ ĐẶC DỊ CÔNG NĂNG

24 Trương Bảo Thắng – Cảnh cáo nữ ảo thuật gia nước ngoài và nhà xã hội học bảo thủ

25 Hầu Hi Quý – Biến ra thức ăn và thuốc lá, biến cua giấy thành cua thật

26 TRƯƠNG BẢO THẮNG- Thời thơ ấu gian khổ – Kết cục thành đạt

27 Trương Bảo Thắng trong trận động đất Đường Sơn khủng khiếp

28 Trương Bảo Thắng bị cha nuôi bỏ rơi, người đời bắt đầu phát hiện siêu nhân

29 Trương Bảo Thắng – Lần đầu được tiến dẫn về tỉnh Liêu Ninh, chưa được trọng thị

30 Hầu Hi Quý – Trị bệnh thần tốc, hô phong hoán vũ, nhận ra và đọc đúng âm của những chữ ông chưa từng học

31 Trương Bảo Thắng – Đản sinh kỳ lạ, tuổi thơ bất hạnh

32 CÁ NHÂN TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA

33 Trương Bảo Thắng – Đi về nam, đến Quảng Châu, Thâm Quyến

34 Trương Bảo Thắng- Tranh cãi với cảnh sát và cảnh vệ

35 Trương Bảo Thắng- Tha tâm thông và dùng ý niệm di chuyển vật thể

36 Trương Bảo Thắng- Khả năng đi xuyên tường

37 CÁI NHÌN TỔNG QUAN VỀ NHÂN SINH

38 Hầu Hi Quý- những chuyện thần kỳ xảy ra năm 1979, sau “cách mạng văn hóa”

39 LIÊU VĂN VĨ- LỜI BẠT (SÁCH VỀ HẦU HI QUÝ)

40 Lời tác giả- Lời tựa- Lời bạt của sách Siêu Nhân Trương Bảo Thắng

41 Trương Bảo Thắng- Trị bệnh cho nguyên soái Diệp Kiếm Anh

42 CÓ PHẢI ZÉNON (ZENO) NGỤY BIỆN KHÔNG ?

43 Ý NGHĨA KHOA HỌC VỀ VIỆC BIẾN RA THUỐC LÁ CỦA HẦU HI QUÝ

44 Hầu Hi Quý – Gặp gỡ những người nổi tiếng của Hong Kong

45 Hầu Hi Quý- Biến ra đô la Mỹ, cảnh cáo cô tiếp viên nhà hàng Tây Uyển

46 Những nhà ngoại cảm, họ là ai ?

47 MỪNG XUÂN GIÁP NGỌ 2014

48 DUY TÂM – LƯƠNG KHẢI SIÊU

49 VÔ THƯỜNG MÙA WORLD CUP

50 CHÍNH TRỊ, CÔNG NGHIỆP VÀ TIN HỌC

51 Thí nghiệm của Maria Chekhova về rối lượng tử (quantum entanglement)

52 HIỆU ỨNG TU HÀNH

53 VẤN ĐỀ CỦA NỀN GIÁO DỤC THẾ GIỚI

54 Dùng tâm lực di chuyển cái bàn mạ vàng

55 MỸ NHÂN VÀ CHUYỆN TU HÀNH

56 Ý NGHĨA CỦA THỜI GIAN TƯƠNG ĐỐI

57 Du Ký Tây phương Cực lạc của Pháp Sư Khoan Tịnh

58 NGÀY PHỤ NỮ 8-3, PHI CƠ MH370 CỦA MALAYSIA BAY ĐI ĐÂU ?

59 ĐỨNG TRƯỚC THẾ GIỚI

60 THẦN THÔNG THỜI HIỆN ĐẠI

Một số video clips về Khoa học hỗ trợ để hiểu Tánh Không

Vạn Pháp Duy Thức

Tieng On Toan Anh – Truong Alaya Thuc

The Holographic Universe – Vũ Trụ Toàn Ảnh 1 – Phụ đề Việt ngữ

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

The Holographic Universe – Vũ Trụ Toàn Ảnh 2 – Phụ đề Việt ngữ

Universe 3 – Trường và Nguyên Lý Toàn Ảnh – Phụ đề Việt ngữ

Universe 4 – Ứng dụng Toàn Ảnh – Vũ Trụ Ảo – Phụ đề Việt ngữ

Universe 5 – Bộ Não Người Là Toàn Ảnh – Phụ đề Việt ngữ

Universe 6 – Bộ não người và cơ chế tạo ra thực tại ảo

Universe 7 – Mỗi Người Có Vũ Trụ của Riêng Mình – Phụ đề Việt ngữ

Universe 8 – Thức trong Vật Lý Lượng Tử – Phụ đề Việt ngữ

Universe 9 – Chúng ta thấy thế giới không đúng như nó là – Phụ đề Việt ngữ

Universe 10 – Niềm Tin Trong Đời Sống – Phụ đề Việt ngữ

Universe 11 – Cảm Nhận, Niềm Tin Có Thể Làm Thay Đổi Gen – Phụ đề Việt ngữ 

Universe 12 – Tâm Mang Tiền Đến Cho Bạn – Phụ đề Việt ngữ

Universe 13 – Tiếng Ồn Toàn Ảnh – Chúng Ta Có Thể Làm Gì – Phụ đề Việt ngữ

Não phản ánh Tâm đã quyết định trước Ý thức 6 giây

Nguoi choi Tro Choi Nhan Loai co the lam gi ?

Đối Chiếu Vật Lý Vũ Trụ Và Phật Pháp 1 – Việt dịch

Đối Chiếu Vật Lý Vũ Trụ Và Phật Pháp 2 – Việt dịch

Đối Chiếu Vật Lý Vũ Trụ Và Phật Pháp 3 – Việt dịch

Đối Chiếu Vật Lý Vũ Trụ Và Phật Pháp – Tổng Kết – Việt dịch

Vũ Trụ Song Song – Bồ Tát Vô Trước

Advertisement
Đăng tải tại Thầy Duy Lực giải đáp (Audio mp3) | 2 bình luận

BẢN CHẤT CỦA SỐ LƯỢNG

Khái niệm về số lượng

Con người từ lúc bắt đầu đi học đã làm quen với số lượng qua các con số. Thậm chí lúc còn là đứa trẻ mới bắt đầu biết nói, cha mẹ anh chị đã dạy tập gọi tên các con số từ 1-100. Rồi khi đi học đứa trẻ dùng các chiếc đũa hoặc các ngón tay để đếm số lượng cụ thể từ 1-10. Thầy cô giáo bắt đầu dạy các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đó là số học. Rồi khi lên trung học học sinh bắt đầu học đại số học 代数学 người ta dùng các ký tự như a,b,c, x, y…để thay thế cho các con số. Những con số chưa xác định thường được gọi là x, y còn gọi là ẩn số và lập các phương trình để giải.

Phương trình bậc 2 đơn giản mà học sinh trung học đã học qua có dạng :

ax2+bx+c=0 (a≠0)  

Phương trình nổi tiếng nhất thế giới được nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20 là Albert Einstein đưa ra. Đó là :

E= mc2

E là năng lượng, tính bằng đơn vị electron volt (eV) hoặc joule (1joule= 1.6 x 10-19 eV) kilo calo (1kcal=3.84x 10-23eV) hoặc kwh (1kwh= 4.448x 10-26eV).

m là khối lượng của vật thể thường tính bằng đơn vị kg, tấn (1 tấn=1000 kg)

c là vận tốc của ánh sáng tính bằng mét hay km, đó là một hằng số = 299 792 458m/s hay quy tròn là 300.000 km/giây   

Tóm lại các nhà vật lý dùng con số để đo lường khoảng cách không gian dài ngắn (tính bằng mét hoặc km). Trong không gian vũ trụ thì dùng đơn vị lớn hơn là năm ánh sáng (1light year = 9.4605284 × 1012 kilometers). Trong sản xuất chip bán dẫn thì dùng đơn vị cực nhỏ là nano mét (1nanometer = 1 phần tỷ mét). Hoặc đo đếm thời gian lâu hay mau dùng các đơn vị như giây, phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm. Để đo khoảng thời gian cực ngắn trong Phật pháp dùng từ sát na 刹那 (1 giây = 75 sát na)

Các nhà toán học thì thiết lập các phương pháp tính toán trong số học và đại số học như các phép tính cộng, trừ, nhân, chia, lũy thừa, căn số, tích phân…

Rồi họ sáng lập ra nền văn minh khoa học của nhân loại, xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu cống, sân bay, bến cảng, đường sắt, đường hàng không, những thành phố to lớn, tráng lệ. Tất cả đều dùng con số để đo lường, dùng toán học và hình học để tính toán, dùng vật lý học, sinh học để phát minh, sáng chế, tạo ra con giống, cây giống mới chất lượng tốt hơn, năng suất cao hơn.

Chưa hết con người còn dùng hệ thống số nhị phân với chỉ hai cơ số (0 và 1) tạo ra một nền tin học đang phát triển rực rỡ. Rồi họ sáng tạo internet, 2G, 3G, 4G, 5G để thiết lập một hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu vô cùng nhanh chóng và tiện lợi mà hầu hết chúng tá đều đang được trải nghiệm qua smartphone.

Rồi con người còn phát triển một dạng tin học mới không dùng bit thông tin mà dùng qubit. Qubit là một dạng chồng chập của bit. Bit chỉ có 2 trị số 0 và 1. Qubit có tới 4 trị số : 0; 1; vừa 0 vừa 1; không phải 0 không phải 1, cũng không phải vừa 0 vừa 1. Qubit tương ứng với tứ liệu giản của thiền Lâm Tế.

四料簡 臨濟義玄 Tứ liệu giản Lâm Tế Nghĩa Huyền

奪人不奪境 Đoạt nhân bất đoạt cảnh Bỏ người không bỏ cảnh

奪 境不奪人 Đoạt cảnh bất đoạt nhân Bỏ cảnh không bỏ người

人境俱奪 Nhân cảnh câu đoạt Người và cảnh đều bỏ

人境俱不奪 Nhân cảnh câu bất đoạt Người và cảnh đều không bỏ

Liệu 料 nghĩa đen là vật liệu chất liệu. Nghĩa bóng là cân nhắc liều lượng

Giản 簡 nghĩa đen là cái thẻ tre. Nghĩa bóng ở đây là chọn lựa

Vậy tứ liệu giản là 4 cách cân nhắc chọn lựa cho phù hợp với người học đạo từ thấp tới cao. Người đưa ra bài kệ tứ liệu giản là thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền, ông tùy theo căn cơ của người học mà có lời chỉ giáo không giống nhau nhưng mục tiêu cuối cùng cũng là giác ngộ. Đó là nói về phương diện tâm lý.

Còn về tin học thì qubit mở rộng khả năng của máy tính điện tử chuyển sang một trình độ cao hơn là máy tính lượng tử. Tháng 11/2022 hãng IBM của Mỹ công bố bộ xử lý lượng tử mạnh nhất nhằm “xử lý những vấn đề chưa được giải quyết trước đây”, Silicon Republic hôm 9/11 đưa tin. Bộ xử lý Osprey 433 qubit. IBM cho biết số lượng bit cần thiết để biểu thị một trạng thái trên Osprey vượt xa toàn bộ số lượng nguyên tử trong vũ trụ. Đó là ưu thế tin học lượng tử so với tin học điện tử.

Một kỹ thuật mới do nhóm TQ phát triển, có khả năng làm giảm đáng kể kích thước của một máy tính lượng tử thực tế xuống chỉ còn 372 qubit nhưng có khả năng giải mã những mật mã phức tạp nhất. Con số qubit này thậm chí còn ít hơn cả Osprey của IBM, máy tính lượng tử mạnh nhất thế giới có 433 qubit nhưng không có khả năng giải mã như vậy. Các nhà nghiên cứu TQ lập luận rằng, thuật toán mới của họ, được gọi là Thứ tuyến tính tư nguyên lượng tử chỉnh số phân giải 次線性資源量子整數分解  (SQIF= Sublinear-resource Quantum Integer Factorization), có thể giải mã dữ liệu được mã hóa bằng RSA-2048. 

Máy tính lượng tử được kỳ vọng là sẽ giải quyết được vấn đề viễn tải lượng tử (quantum teleportation) tức là gởi được một vật thể như con người đi xa không giới hạn.       

Như vậy chúng ta thấy con số đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của nhân loại.   

Bản chất của số lượng là gì ?                   

Số lượng tuy có vai trò vô cùng quan trọng như vậy nhưng bản chất của số lượng là gì ? Tôi e rằng các nhà toán học, các nhà vật lý học cũng bối rối không rõ không thể trả lời được rõ ràng. Tại sao vậy ? Một con chó thú cưng, một kilogram gạo, một chiếc smartphone, đều rất dễ hiểu mà. Số lượng cũng giống như không gian hay thời gian có thể dùng con số và đơn vị tính để biểu hiện nhưng bản chất của những đại lượng đó là gì thì không ai hiểu rõ. Người ta cũng không hiểu có vấn đề như thế. Vấn đề chỉ được nhân loại chính thức đề cập lần đầu tiên vào năm 1935.

Such phenomena were the subject of a 1935 paper by Albert Einstein, Boris Podolsky, and Nathan Rosen, and several papers by Erwin Schrödinger shortly thereafter, describing what came to be known as the EPR paradox. Einstein and others considered such behavior impossible, as it violated the local realism view of causality (Einstein referring to it as “spooky action at a distance”) and argued that the accepted formulation of quantum mechanics must therefore be incomplete. (Quantum entanglement- Wikipedia)   

Những hiện tượng như vậy là chủ đề của một bài báo năm 1935 của Albert Einstein, Boris Podolsky và Nathan Rosen, và một số bài báo của Erwin Schrödinger ngay sau đó không lâu, mô tả cái được gọi là nghịch lý EPR. Einstein và những người kia coi hành vi của hạt như vậy là không thể, vì nó vi phạm quan điểm hiện thực thực địa về quan hệ nhân quả (Einstein gọi nó là “tác động ma quái từ xa”) và lập luận rằng công thức được chấp nhận của cơ học lượng tử do đó phải là không đầy đủ.

Công thức được chấp nhận lúc đó là gì ? Đó là cái mà Einstein gọi là “spooky action at a distance” (tác động ma quái từ xa) nghĩa là khi hai hạt photon ở trạng thái vướng víu (liên kết) thì khi hạt A bị tác động, tức thì hạt B bị tác động theo ngay tức khắc không mất thời gian bất chấp khoảng cách là bao xa. (Ví dụ năm 2017 TQ đã làm lại thí nghiệm với vệ tinh lượng tử Mặc Tử, khoảng cách giữa hai photon là 1200km, tác động vẫn không mất thời gian mặc dù 1200km là khoảng cách rất lớn).

Nhóm EPR của Einstein không tin là hiện tượng liên kết lượng tử (quantum entanglement) có xảy ra thật. Họ đưa ra nghịch lý EPR nhằm phản bác hiện tượng này, cho rằng nó không có thật và rằng tri thức về cơ học lượng tử là chưa đầy đủ. Họ nói nó vi phạm quan điểm hiện thực thực địa về quan hệ nhân quả nghĩa là sao ? Nghĩa là nó vi phạm định đề về tốc độ ánh sáng của Einstein. Năm 1905 Einstein đưa ra thuyết tương đối hẹp (Special Relativity) trong đó có hai định đề (postulate):  

– The first postulate of special relativity states that the laws of physics and electromagnetism are the same in any inertial frame of reference. (Định đề thứ nhất của thuyết tương đối hẹp phát biểu rằng các định luật vật lý và điện từ học là như nhau trong mọi hệ quy chiếu quán tính).

-The second postulate of special relativity states that the speed of light in a vacuum is constant at c = 3 x 108 m/s in all inertial frames of reference. (Định đề thứ hai của thuyết tương đối hẹp phát biểu rằng tốc độ ánh sáng trong chân không là hằng số -không đổi- là c = 3 x 108 m/s (tức 300.000 km/giây) trong mọi hệ quy chiếu quán tính.  

Như vậy tốc độ truyền tín hiệu giữa hai photon là vi phạm định đề thứ hai của Einstein vì nó lớn hơn rất nhiều so với tốc độ ánh sáng được coi là tốc độ cao nhất của vật chất trong vũ trụ.

Thế nhưng đến năm 1982 Alain Aspect nhà khoa học Pháp làm lại thí nghiệm liên kết lượng tử tại Paris, áp dụng bất đẳng thức của John Bell xác nhận một cách rõ ràng thuyết phục rằng hiện tượng này có xảy ra thật. Và từ thí nghiệm đó người ta rút ra 3 kết luận cực kỳ quan trọng làm sụp đổ tất cả lâu đài tri thức mà con người đã xây dựng được từ bao thế kỷ nay.

1/Vật (cụ thể là hạt cơ bản như photon, electron…) không có thật (non realism) từ đó suy ra nguyên tử, phân tử, cố thể vật chất, vũ trụ vạn vật đều là do tâm tưởng tượng ra chứ không có thực thể. 

2/Không gian và thời gian là vô sở trụ (non locality) cũng tức là không có thật. Không gian và thời gian cũng chỉ là tâm niệm chứ không có thực thể. Chính vì không gian không có thật nên hiện tượng liên kết lượng tử mới xảy ra được. Bởi vì giữa hai photon thật ra không hề có khoảng cách nào nên tín hiệu cũng không cần truyền đi, không cần di chuyển. Từ thời cổ đại cho tới thời hiện đại cũng không có khoảng cách nào về thời gian cả.  

3/Số lượng là không có thật (non quantity). Một phton có thể xuất hiện đồng thời ở hai vị trí khác nhau giống như là hai photon, thật ra chỉ là một. Thậm chí năm 2012 Maria Chekhova tại đại học Mat-xcơ-va còn tạo được một liên kết với 100.000 hạt photon. Vậy 100.000 hạt photon cũng chỉ là một hạt. Vậy số lượng không có thật. Số lượng 100.000 photon mà con người đếm được chỉ là ảo, không phải thật.

Thực nghiệm về số lượng không có thật

Kinh điển Thiên Chúa giáo có đề cập chuyện Giêsu chia bánh và cá. Trong một buổi giảng đạo bên hồ Galilee (phía bắc Israel hiện nay). Hồ này Kinh Thánh Tân Ước gọi là Galilee còn có tên là Tiberias, còn Kinh Cựu Ước gọi là Kineret. Đây là hồ nước ngọt lớn nhất Israel, dài 21km, rộng 13km, tổng diện tích 166km2 nơi sâu nhất 43m. Nguồn cung cấp nước chính là sông Jordan và các suối ngầm trong lòng đất.

View of the sea of Galilee (Kineret lake), Israel .

Hồ kineret ở Israel nơi chúa Giê-su giảng đạo

Một trong các bài giảng nổi tiếng của Chúa Giêsu là Bài giảng trên núi, diễn ra trên một ngọn đồi trông xuống hồ. Nhiều phép lạ của Chúa Giêsu cũng diễn ra tại đây, trong đó có việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước hồ và dẹp yên bão tố và việc biến 5 cái bánh và 2 con cá thành vô số lượng có thừa cho  5.000 đàn ông ăn no, chưa kể đàn bà và trẻ con. Câu chuyện như sau :

Bối cảnh khi ấy là Chúa Giêsu nghe tin Gioan Baotixita (thánh Gioan Theo Tân Ước, Gioan là người sống du mục và khổ hạnh, mặc áo lông thú, ăn châu chấu và uống mật ong. Gioan đã lôi cuốn được một số lượng lớn môn đệ nhằm tiên báo cho sứ mạng hoạt động của Chúa Giêsu, ông  đã thực hiện nghi thức thanh tẩy (rửa tội) cho Giêsu tại sông Jordan, bằng hình thức dìm toàn thân vào nước. Ngoài ra, Phúc Âm Luca còn nói thêm chi tiết rằng: Gioan là anh em bà con với Giêsu vì mẹ ông – bà Elizabeth- là chị họ của Maria, mẹ Giêsu.) đã bị trảm quyết, Giêsu tạm lánh bằng thuyền đến một nơi vắng vẻ gần Bethsaida nhưng đám đông vẫn đi bộ theo sau ngài. Khi Giêsu vào bờ thì thấy cả một đám đông lớn đang chờ sẵn, ngài chạnh lòng thương họ và chữa lành bệnh cho họ. Trời sắp tối, các môn đệ đến nói với ngài rằng: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”.

Ngài trả lời: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm ổ bánh mì và hai con cá!” (do một đứa trẻ mang tới). Ngài bảo: “Đem lại đây cho Thầy!”

Sau đó, ngài truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ rồi ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.

Một câu chuyện khác trích từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, chương 10, Phẩm Hương Tích Phật.

Bấy giờ, Xá Lợi Phất nghĩ rằng:

– Sắp đến giờ ăn. Các Bồ Tát sẽ thọ thực ở đâu? Duy Ma Cật biết ý, nên nói rằng:

Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ cho ông được bữa ăn chưa từng có. Trước mặt đại chúng Duy Ma Cật hóa ra một vị Bồ Tát. Trong nháy mắt, vị này đến cõi nước Chúng Hương xin một bát cơm thừa. Hương Tích Như Lai ở cõi nước Chúng Hương lấy đầy bát cơm hương trao cho hóa thân Bồ Tát.Và cũng trong nháy mắt Bồ Tát hóa thân trở về nhà của Duy Ma Cật tại thành Tỳ Xá Ly (Vaishali). Tỳ Xá Ly ngày nay thuộc quận Patna, thành phố Patna cũng là thủ phủ bang Bihar, Ấn Độ. Tỳ Xá Ly là nơi diễn ra cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai khoảng 100 năm sau ngày Phật nhập Niết bàn.

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất và các vị đại Thanh Văn rằng:

– Các nhơn giả cứ tùy ý dùng cơm cam lồ của Như Lai

Các vị Thanh Văn lại nghĩ rằng:

– Cơm này ít thế chỉ có một bát làm sao đủ cho đại chúng ăn?

Hóa thân Bồ Tát nói rằng:

-Chớ bảo rằng cơm ít, cơm này là vô lượng ăn bao nhiêu cũng không hết, mọi người cứ thoải mái mà ăn.

Vì thế, một bát cơm cho tất cả chúng trong hội ăn đều no đủ, mà cơm vẫn còn dư.

Qua hai câu chuyện kể trên, chúng ta thấy rằng số lượng vật chất không phải là hạn chế bất biến, nó có thể biến từ ít thành nhiều không có giới hạn. Kinh điển Thiên Chúa Giáo và Kinh điển Phật giáo đều có đề cập. Chúng ta hãy xem thêm câu chuyện thứ ba xảy ra trong thời hiện đại, thể hiện số lượng chỉ là tâm niệm.

Năm 1987, Hầu Hi Quý thong dong đi về nam, đã gần tới tết, ông muốn về nhà ăn tết. Xe lửa chạy rầm rầm. Hầu Hi Quý vốn tính hiếu động, lại hiềm vì toa xe chật hẹp, nên ông muốn làm một trò biến hóa chơi, vì vậy ông tìm người đồng hành về nam là Tiểu Long nói chuyện cho vui.

“Tiểu Long, anh nhìn người phụ nữ đang ngủ ở giường giữa đằng kia kìa, hai bàn chân thò ra ngoài cái chăn có thấy không ?” Tiểu Long nhìn theo ánh mắt của Hầu Hi Quý, quả nhiên thấy hai bàn chân mập ú, do vậy anh ta cười, biểu thị là đã thấy.

“Anh đi đếm ngón chân của bà ta xem.” Hầu Hi Quý cười hề hề nói một cách thần bí, “đếm cho chính xác nhé, để coi anh có bản lĩnh không.”

Tiểu Long cảm thấy việc khôi hài buồn cười, mình là người lớn đang sống, có thể nào không đếm được người ta có bao nhiêu ngón chân ? “Này, sư phụ, tôi không phải là đứa trẻ ba tuổi, làm sao mà không đếm được rõ người ta có bao nhiêu ngón chân ?”

“Trước hết đừng có ba hoa, hãy đi đếm đi !”

“Đếm thì đếm, tôi không tin sẽ đếm sai.”

Tiểu Long miễn cưỡng từ giường trên trèo xuống, đi đến phía trước đôi chân, đưa tay đếm bàn chân phải, mỗi ngón ghi nhớ trong đầu. “Một, hai, ba, bốn, năm !” Sau đó ngẩng đầu nói với Hầu Hi Quý, “mỗi bàn chân có 5 ngón chân không thừa không thiếu !”

“Thật không, là 5 hả ?” Hầu Hi Quý cười ha ha, nói “Đếm sai rồi, không tin anh đếm lại xem !”

“Tiểu Long cảm thấy kỳ lạ, không phải 5 ngón chân sao, có thể đếm sai chăng ? Thế là anh ta đếm lại từng ngón chân của người phụ nữ, phát hiện bà ta có thêm một ngón chân, không phải 5 ngón mà là 6 ngón ! Quả nhiên là đếm sai, bên cạnh ngón cái có thêm ngón nữa là ngón thứ 6. Thấy quỷ sống rồi, Tiểu Long cảm thấy quái dị, đếm lần thứ nhất tại sao không thấy nhỉ ? Anh bèn có ý đếm lại lần nữa, rõ ràng lại là 5 ngón. Không thể, vạn lần không thể phát sinh sự hồ đồ như thế được, lại muốn đếm lại cho rõ. Vì vậy đếm lại, lại là 6 ngón…

Tiểu Long còn đang chuyên chú đếm ngón chân, sớm làm kinh động mấy vị hành khách ở giường trên và giường dưới, mọi người đều cảm thấy kỳ lạ hi hữu, cũng tham gia đếm. Chỉ có chủ nhân của bàn chân, người phụ nữ vẫn ngủ say hoàn toàn không hay biết. Đôi bàn chân của bà ta làm kinh động mấy vị nam tử hán đại trượng phu : bà ta càng không biết rằng, các ngón chân của bà lại có thể biến hóa khôn lường, cuối cùng không hiểu tại sao lại có thể rơi vào “vòng công phu” của Hầu Hi Quý. Rốt cuộc người ta không thể xác định được là mỗi bàn chân của người đàn kia có 5 hay 6 ngón chân. 

Chỉ có Hầu Hi Quý là hài lòng tự đắc, ông lấy làm vui, người khác cũng vui, nếu không thì bầu không khí trong chuyến lữ hành lại trầm lắng như thế nào ấy !

Ý kiến các nhà khoa học

Nhưng thường chúng ta hay có khuynh hướng cho rằng những nguồn tư liệu đó không có giá trị mấy về mặt khoa học. Vậy thì hãy đến với các thí nghiệm khoa học xem thế nào. Xem bản tin Vật lý tháng 11-2012.

Những xung ánh sáng gồm khoảng 100.000 photon vướng víu đã được tạo ra bởi các nhà vật lí ở Đức và Nga. Những xung ánh sáng đó được tạo ra trong một trạng thái “chân không nén” và đội nghiên cứu tìm thấy sự vướng víu trở nên mạnh hơn khi số lượng photon có trong xung tăng lên. Những xung sáng như vậy có thể ứng dụng trong những công nghệ như mật mã học lượng tử hoặc đo lường học. Sự vướng víu là một hiệu ứng lượng tử cho phép các hạt như photon có mối liên hệ chặt chẽ hơn so với vật lí cổ điển tiên đoán. Chẳng hạn, người ta có thể tạo ra hai photon trên thực nghiệm, sao cho nếu một hạt được đo là bị phân cực theo phương thẳng đứng, thì phép đo trên hạt kia sẽ cho trạng thái phân cực giống như vậy. Hiệu ứng này xảy ra bất chấp thực tế là một phép đo trên một photon đơn độc sẽ cho biết một giá trị ngẫu nhiên của sự phân cực của tất cả các photon còn lại. Nay Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow vừa tạo ra những trạng thái lượng tử chứa tới 100.000 photon, và tất cả chúng đều bị vướng víu với nhau.

100.000 photon ở trạng thái vướng víu (entangled) nghĩa là gì ? Nghĩa là một photon xuất hiện đồng thời ở 100.000 vị trí khác nhau trong không gian. Số lượng vị trí xuất hiện có giới hạn không ? Câu trả lời là không. Bằng chứng ở đâu ? Bằng chứng là thuyết Big Bang. Theo thuyết này, sau vụ nổ, thời gian và không gian đầu tiên xuất hiện như sau : thời gian bằng 10-43 (mười lũy thừa trừ 43) giây, vũ trụ chỉ là một hạt lượng tử có kích thước bằng 10-33(mười lũy thừa trừ 33) cm. Còn trước đó là bức tường Planck, không có không gian, không có thời gian, không có số lượng vật chất gì cả. Người ta tưởng tượng tại bức tường, thời gian là 10-44 (mười lũy thừa trừ 44) giây, đó chỉ là suy luận thôi, thực tế là không có gì cả, vũ trụ chưa bắt đầu hình thành. Sau vụ nổ, vũ trụ mới bắt đầu xuất hiện, bắt đầu có không gian, thời gian và số lượng vật chất, số lượng bắt đầu với chỉ một hạt lượng tử, sau đó xuất hiện khắp vũ trụ với vô lượng vô biên vị trí khác nhau, hình thành nên thiên hà, ngôi sao, mặt trời, hành tinh, trái đất, mặt trăng, vạn vật, con người.

Các nhà khoa học khi lập ra giả thuyết Big Bang, họ không nghĩ vũ trụ chỉ là ảo, họ tin rằng vũ trụ là có thật. Nhưng theo quan điểm Phật giáo, giả thuyết của họ chỉ chứng tỏ vũ trụ là ảo thôi. Chính vì vũ trụ là ảo, không phải thật, nên một photon hay nói tổng quát là một hạt lượng tử có khả năng xuất hiện đồng thời ở vô số vị trí khác nhau, hình thành không gian vũ trụ cũng như hình thành thời gian và số lượng. Đó cũng chính là cơ sở khoa học của thuyết Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể. Tất cả là Một.

Vũ trụ vạn vật chỉ là ảo nên thực tại tối hậu là không gian, thời gian, số lượng vật chất chỉ là ảo chứ không phải là thật. Thế ý kiến của các khoa học gia thế nào ?

Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)  nói “Isolated material particles are abstractions” (1) (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (2)(Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).

Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (3) (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).

Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người phát minh ra nguyên lý bất định _không thể đồng thời xác định vị trí và vận tốc hay động lượng của một hạt, ví dụ electron) nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (4)(Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).

[(1), (2), (3), (4), trích trong “Religion and the quantum world” của Giáo sư Keith Ward phát biểu tại  Gresham College, UK ngày 09/03/2005]

Qua ý kiến của 4 nhà khoa học hàng đầu của thế giới, ta thấy rằng ý thức góp phần quan trọng trong cấu thành của vật chất, tức là không thể có vật chất tồn tại độc lập ngoài ý thức.  

Một giáo sư vật lý tại Đại học Oregon, Mỹ và là thành viên của Viện Khoa Học Lý Thuyết, Tiến sĩ Amit Goswami khẳng định chắc như đinh đóng cột trong cuốn sách của ông, The Self-Aware Universe: How Consciousness Creates the Material World (Vũ Trụ Tự Thức: Làm Thế Nào Ý Thức Tạo Ra Thế Giới Vật Chất).

Như vậy có thể nói là chúng ta đã hiểu được lời nói trong kinh điển Phật giáo : Nhất thiết duy tâm tạo.

Kết luận : Số lượng cũng như không gian và thời gian đều là do tâm tạo. Tâm, ý thức, tưởng tượng ra những đại lượng đó chứ không phải là chúng có thật. Bản chất của không gian, thời gian, vật chất, năng lượng, số lượng, cũng đều là tánh không.

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | Bình luận về bài viết này

PHẬT GIÁO CÓ HẠN CHẾ KHÔNG ?

Tại sao có người nói Phật giáo có những hạn chế ?

Hôm nay tôi tình cờ đọc một bài luận của ông Trần Minh Tánh, là một học viên khoa Quản trị kinh doanh của Đại học Mở TP Hồ Chí Minh. Đây là một tiểu luận triết học hồi năm 2016 nói về đề tài Những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo ở Việt Nam.

Giá trị của PG thì chúng ta không cần đề cập vì sách báo đã nói quá nhiều rồi, nên bài viết này tôi sẽ nói về mặt hạn chế của PG mà luận văn đề cập.    

Ngay phần đầu tác giả cũng có rào trước rằng : “Nhưng cần phải nhận thức một điều là những ảnh hưởng tiêu cực này không phải xuất phát từ bản chất lý luận của đạo Phật mà do những người thừa hành” Người thừa hành tức là tăng đoàn, tu sĩ, cư sĩ PG. Tác giả đã nêu một số hạn chế của đạo Phật như :

-Phát triển có nghĩa là tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hóa…Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật vì tham vọng trái với cấm dục, vô dục, ly dục của nhà Phật.

-Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận, chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải là cải tạo thế giới, chế ngự thiên nhiên…

-Chúng ta nhận thấy rằng ngày nay những người đi chùa hầu hết không có đủ tri thức về giáo lý nhà Phật nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình.

-Các buổi giảng kinh, đàm đạo tại các buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh túy của đạo lý Phật giáo mà phần nhiều theo thị hiếu : Cầu an, giải hạn, cầu lộc…của giới bình dân.

-Số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán, phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khỏe, vật chất…

-Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện-ác.

-Như vậy mục đích đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hóa so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.

Theo nhận định của tôi thì những điều tác giả nêu ra cũng không hề sai. Tuy nhiên cũng không phải hoàn toàn đúng. Tôi sẽ phân tích tại sao không sai mà cũng không đúng.

Những hạn chế của Phật giáo về mặt lý thuyết và về mặt thực tiễn xã hội không sai vì tình hình là như sau :

Về mặt lý thuyết những lời dạy ban đầu của Đức Phật như Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên…chỉ là thuốc chữa trị tạm thời cho người bệnh nặng, đó là phương pháp cấp cứu có tính cách giai đoạn, tình huống, dành cho người chưa biết gì về thế giới. Cũng giống như đối với trẻ con thì không thể dạy chúng như đối với người lớn được. Chẳng hạn không thể dạy chúng về quan hệ nam nữ, về kỹ thuật sản xuất, về chiến tranh chống xâm lược, sẵn sàng tàn sát quân địch v.v…Thế nhưng một số rất đông những người tu hành theo Phật giáo coi những lời dạy đó là chân lý và răm rắp tuân theo khiến cho Phật giáo có khuynh hướng xuất thế gian, chỉ lo về mặt tinh thần, không quan tâm cải thiện đời sống vật chất của xã hội, dần dần xa rời cuộc sống thực tiễn của xã hội. Tu sĩ không có trách nhiệm giải quyết đời sống vật chất của tín đồ, thậm chí tu sĩ còn phải cần có tín đồ cúng dường, nuôi dưỡng.  

Ngay cả một số bậc giác ngộ thời xưa ở Ấn Độ cũng chỉ hướng dẫn cho từng cá nhân tự giải phóng khỏi sự đau khổ chứ họ cũng không làm gì để nâng cao đời sống vật chất của xã hội, giải phóng con người khỏi sự cùng khổ. Các Tổ Sư không phải là nhà chính trị, họ không can thiệp vào đời sống vật chất của xã hội. Công việc cải tạo xã hội là của các lãnh tụ chính trị, của vua chúa, không phải là việc của các sư sãi. Mà dù có muốn họ cũng không thể làm được bởi vì khoa học kỹ thuật chưa phát triển, chỉ có khoa học mới có khả năng cải tạo đời sống vật chất cho xã hội. Thậm chí có những điều mà các tổ sư hiểu mà không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể nói chung chung thôi. Chẳng hạn họ hiểu và đã nói trong kinh Hoa Nghiêm : Nhất thiết pháp vô tự tính. Nhưng quần chúng không ai hiểu, có cực kỳ ít người hiểu được và không có ai thực hành được. Một điều cần nêu ra là tuyệt đại đa số mọi người đều không ai hiểu Phật giáo đích thực là gì, họ chỉ hiểu Phật giáo là giáo môn nửa vời như đã nói ở trên, đó không phải là tối thượng thừa của Phật giáo, và dĩ nhiên không phải là cốt tủy của Phật giáo.    

Thực tế Phật giáo có bị hạn chế không ?

Những nguyên lý cốt lõi của Phật giáo như Bất nhị pháp môn, Nhất thiết pháp vô tự tính, Nhất thiết duy tâm tạo, chứng tỏ Phật giáo không hề có chút hạn chế nào.  

Cho tới tận ngày nay chỉ có một số rất ít những nhà khoa học hàng đầu thế giới và không tin ở quan điểm duy vật khách quan của Einstein mới hiểu câu Nhất thiết pháp vô tự tính nghĩa là gì. Nhất thiết pháp vô tự tính có ý nghĩa căn bản sâu xa nhất là các hạt cơ bản của vật chất như photon, electron, quark…không có sẵn đặc trưng đặc điểm như vị trí, khối lượng, điện tích, số đo spin. Vậy đặc trưng, đặc điểm của hạt ở đâu mà ra ? Câu trả lời của Phật giáo rất rõ ràng và chính xác vì các bậc giác ngộ đã thấy, đã thân chứng : Nhất thiết duy tâm tạo. Tất cả đều là do tâm tạo chứ không phải có thật. Tất cả các pháp từ cái nhỏ nhất như hạt cơ bản của vật chất (elementary particles of matter) như photon, electron, quark cho tới không gian, thời gian, vật chất, vật thể, số lượng…đều là do tâm tạo chứ không có thực chất, không có bản thể. Bởi vì tất cả chỉ là thức do tâm tạo, tâm tưởng tượng ra nên tất cả sự phân biệt của cặp mâu thuẫn như vật chất và tinh thần, tốt và xấu, thiện và ác, lớn và nhỏ, lâu và mau…đều không có thực thể. 

Chúng ta hãy nghe lại một lần nữa thầy Duy Lực thuyết :

1401 Việc trần sa kiếp cũng như việc hiện nay- Ý nghĩa của thời gian    

Nhưng bởi vì chính các bậc giác ngộ thời xưa không thể làm gì để cải thiện đời sống vật chất cho xã hội, cho nên xã hội Ấn Độ từ thời Đức Phật cho tới tận ngày nay, đa số người dân vẫn còn sống trong sự bần cùng, nghèo đói, thiếu thốn.    

Vậy ngày nay khoa học đã phát triển, trình độ tư duy, hiểu biết của con người trong xã hội đã được nâng cao thì Phật giáo phải làm gì để thay đổi hình ảnh tiêu cực, để phá bỏ những hạn chế do giáo môn tạo ra ?       

Đây chính là vấn đề chủ yếu của Phật giáo ngày nay. Phật giáo trong thực tế lịch sử có bị nhiều hạn chế do hoàn cảnh xã hội ràng buộc, do trình độ nhận thức của quần chúng thấp kém, rất khó nói những điều chân thật mà quá cao xa với hiểu biết thông thường của họ, phải nói những điều hợp với ham thích của họ như tu hành để thành tựu các thánh quả, niết bàn v.v… Thật sự đó chỉ là hóa thành dụ (giả lập ra một nơi để nghỉ ngơi tạm thời trên đường xa). Các bậc giác ngộ cũng không thể làm gì hơn được ngoài việc hướng dẫn cho một số ít người tự giải thoát rốt ráo, một số đông khác thì đi từ từ từng giai đoạn qua ngũ thừa五乘Phật giáo : Đó là ẩn dụ giống như 5 cỗ xe, xe càng tốt thì càng đi xa, chỉ có xe tốt nhất mới có thể đi tới đích cuối cùng. Bao gồm :

Nhân thừa (Manuwya-yàna)  

Thiên thừa (Deva-yàna)

Thanh văn thừa (Zravakayàna) và Duyên giác thừa (Pratyekayàna)

Bồ tát thừa (Bodhisattvayàna) phải trải qua thập địa mới tới đích

Phật thừa còn gọi là Vô thượng thừa (An-uttarayàna) Có thể đốn ngộ không nhất thiết phải trải qua các giai đoạn bởi vì không gian, thời gian, số lượng đều không có thật.

Phật giáo thực ra không hề có bất cứ một hạn chế nào. Người tu cũng không tuyệt đối phải ăn chay hay phải kiêng cử chuyện dâm dục sinh sản. Những giới luật, quy phạm chẳng qua là để giúp người sơ cơ không bị sa ngã do thiếu hiểu biết. Chứ Phật giáo đã là bất nhị pháp môn thì đâu còn phân biệt những cái vọng tưởng do ý thức của chúng sinh tạo ra; cái này thiện, cái kia ác; cái này thánh, cái kia phàm… Ngay cả những điều tưởng chừng rất trái nghịch với đạo đức tôn giáo như dâm dục cũng không phải hoàn toàn cấm kỵ. Bằng chứng là bên Mật tông có pháp môn nam nữ song tu có nghĩa là họ dùng dâm căn (linga và yoni) làm cửa để vào đạo.

Có những vị sư Tây Tạng, họ tu tập bằng cách sống trong lửa dục (song tu với không hành nữ- dakini) mà không bị lửa đốt cháy. Mật tông Kim Cương thừa dùng hành vi dâm để luyện tập, nhận ra tánh thanh tịnh của nó (kiến tánh), tánh dâm cũng chính là Phật tánh, vô phân biệt, chân thật bất nhị. Trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, đạo sư Guru Rinpoche (Liên Hoa Sinh 蓮華生 Padmasambhava, không biết rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông từ Ấn Độ đến Tây Tạng dưới triều đại Trisong Detsen, 742 đến 797CN ) và người phối ngẫu của ông là Đức Bà Yeshe Tsogyal (757-817CN) là những nhân vật nổi tiếng nhất trong phép tu này. 

Đại sư Guru Rinpoche (Liên Hoa Sinh 蓮華生) Karmamudra

Đức Bà Yeshe Tsogyal (Y Hỉ Thố Gia 伊喜措嘉)

Tượng Đức Bà Yeshe Tsogyal

Nhưng phép tu này cũng rất nguy hiểm, người chưa ngộ tánh không mà tu kiểu này rất dễ bị chìm đắm trong sắc dục. Chính vì vậy mà Phật giáo cũng như mọi tôn giáo khác đều phải có những hạn chế, song đó không phải là toàn bộ Phật giáo.

Vậy trong thời đại khoa học kỹ thuật toàn thịnh thì Phật giáo phải làm gì ?

Các nhà sư và các cư sĩ Phật giáo phải hiểu rõ tinh hoa của Đạo Phật, phải đủ bản lĩnh để hướng dẫn cho khoa học. Phật giáo đi trước khoa học, tất nhiên PG có khả năng hướng dẫn cho khoa học. Cụ thể là hướng dẫn cho khoa học điều gì ?

Nhà sư phải hiểu rõ Kinh Hoa Nghiêm nói Nhất thiết pháp vô tự tính. Vậy thì họ phải hiểu hạt photon hay hạt electron không có sẵn đặc trưng. Họ phải nói cho những nhà khoa học như Einstein hiểu rằng bậc giác ngộ là Đức Phật đã tự thân chứng nghiệm và đã xác định là các hạt cơ bản không có sẵn đặc trưng. Vậy đặc trưng của hạt từ đâu mà có ? Chắc chắn là từ người quan sát. Người quan sát đã tưởng tượng ra đặc trưng và gán ghép những đặc trưng đó cho hạt cơ bản. Nên trong kinh Phật có câu : Nhất thiết duy tâm tạo. Tâm đã tưởng tượng ra hạt cơ bản, các hạt đã kết hợp với nhau tạo thành nguyên tử, phân tử, vật thể và toàn bộ vạn vật. Những điều đó là cực kỳ khó hiểu nhưng Đức Phật đã tự thân chứng nghiệm và đã nói trong kinh điển. Thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement) đã bộc lộ tất cả những bí mật này và người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng : không gian, thời gian, số lượng vật chất chỉ là ảo tưởng của con người chứ không phải tuyệt đối có thật. Chính vì vậy Thiền mới nói rằng : Con người đang nằm mơ giữa ban ngày mà không biết.

Vạn Pháp Duy Thức       

Phật giáo phải hướng dẫn cho các khoa học gia hiểu nguyên lý bất nhị, vật chất và tinh thần không phải là hai, không phải vật chất quyết định mà tinh thần mới quyết định bởi vì tâm (vô sinh pháp nhẫn) tạo ra vũ trụ vạn vật.

Con người đang tạo ra chip điện tử silicon và đang tiến tới chế tạo chip trên nền tảng graphene, ống nano carbon, cũng đang nghiên cứu chế tạo chip quang tử (photonic chip). Công nghệ tiên tiến nhất đang chuẩn bị thương mại hóa chip 3nm (1 nanometre = 1 phần tỷ mét). Chỉ số nm càng thấp thì số lượng transitor chứa trong một đơn vị diện tích càng nhiều, chip càng có hiệu năng cao và càng hao tốn ít năng lượng. Ví dụ với công nghệ 3nm có 250 triệu transistors/mm²    

Người ta đang chế tạo chip ngày càng mạnh để làm gì ? Con người đang chế tạo máy tính lượng tử với tốc nhanh khủng khiếp không thể tưởng tượng nổi. Công ty IBM công bố bộ vi xử lý lượng tử mạnh nhất nhằm “xử lý những vấn đề chưa được giải quyết trước đây”, Silicon Republic hôm 9/11/2022 đưa tin. Bộ xử lý Osprey 433 qubit (đơn vị của thông tin lượng tử) của IBM mạnh hơn bất kỳ bộ xử lý cùng loại nào trước đây và mạnh gấp hơn 3 lần phiên bản công ty giới thiệu năm ngoái là Eagle (127 qubit). Cỗ máy Osprey có tiềm năng chạy những phép toán lượng tử phức tạp vượt ngoài khả năng tính toán của máy tính thông thường. IBM cho biết số lượng bit cần thiết để biểu thị một trạng thái trên Osprey vượt xa toàn bộ số lượng nguyên tử có trong vũ trụ.  

Những máy tính lượng tử mạnh khủng khiếp như vậy mới có khả năng xử lý vật thể, chẳng hạn biến một cái bánh thành lượng tử và chuyển đi xa trong chớp mắt là tới Hỏa Tinh. Cái đó khoa học gọi là viễn tải lượng tử (quantum teleportation). Rồi sẽ tới giai đoạn một con người cũng có thể di chuyển đi xa nhanh và dễ dàng như vậy.

Mặt khác toàn bộ những nhu cầu của con người đều có thể dùng máy in 3D để in ra không giới hạn đủ cho tất cả mọi người. Con người sẽ không còn cần phải tranh giành tài nguyên biển đảo với nhau nữa, chiến tranh không còn cần thiết nữa vì Phật giáo đã nói là không có số lượng, tất cả chỉ là ảo. Vậy những nhu cầu về lương thực thực phẩm, quần áo giày dép, đồ dùng hàng ngày, nhà cửa, phương tiên đi lại đều có thể in ra không giới hạn đủ cho tất cả mọi người. Về nguyên tắc, nguyên lý thì Đức Phật đã tự thân chứng nghiệm hết rồi. Trong lịch sử thì các vị tổ sư trong mấy ngàn năm qua đã nói và đã chứng tỏ bằng thực nghiệm, hiện vẫn còn bằng chứng để làm tin, chẳng hạn nhục thân bất hoại của 3 vị thiền sư : Lục Tổ Huệ Năng, Hám Sơn, Đơn Điền, hiện vẫn còn lưu trữ thờ phụng tại chùa Nam Hoa, thành phố Thiều Quan tỉnh Quảng Đông, TQ. 

Từ trái qua phải, nhục thân của các thiền sư Đơn Điền, Huệ Năng, Hám Sơn

Hai câu đối trên hình là :   

佛法在世间,不离世间觉  Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác

离世觅菩提,犹如求兔角  Ly thế mịch Bồ đề, do như cầu thố giác

Ý nghĩa là Phật pháp ở trên thế gian không thể rời thế gian mà giác ngộ được. Rời thế gian mà tìm Bồ đề (giác ngộ) giống như đi tìm sừng thỏ.

Điều đó có nghĩa là thế gian vốn là chỉ là ảo tưởng của chúng sinh nên cũng phải dựa trên ảo tưởng đó mà giác ngộ, nghĩa là vì mê nên mới có giác, không mê thì cũng không có giác ngộ. Rời thế gian đi tìm giác ngộ ở cõi Trời hay ở cõi Tây phương cực lạc cũng chỉ là ảo tưởng giống như đi tìm sừng thỏ (con thỏ vốn không có sừng). Trong lịch sử Thiền tông cũng có những câu chuyện kỳ đặc.    

Trong triều đại nhà Tống có nhà sư, được coi là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, đó là nhà sư nổi tiếng Giới Đồ Lê 戒阇黎 quê ở Lâm Hải, Thai Châu 台州临海 thời Nam Tống (1127–1279). Trước khi xuất gia ông họ Lâu, cha là Lâu Nguyên Hựu 娄原佑, nổi tiếng là người tốt trong vùng. Cả đời ông làm từ thiện, thích trai tăng (làm tiệc chay đãi các vị tăng) chỉ tiếc là vợ chồng ông sau nhiều năm chung sống vẫn chưa có con. Ông đã cầu khấn và bà vợ có lần chiêm bao thấy ôm vầng trăng vào lòng, sau đó có mang sinh được con trai đặt tên là Đốn Cát 顿吉.

Đứa trẻ này ngay khi mới sinh ra đã biết nói: “Lành thay cha mẹ, đã cưu mang sinh ra tôi, đã cứu giúp nhiều người, là dị nhân hiếm có trên đời.” Sự kiện này khiến vợ chồng ông Lâu vừa mừng vừa lo, mừng là đứa trẻ vừa sinh ra đã biết nói, nhưng họ lại lo xuất thân phi phàm của nó, lo lắng là bốn câu này mang đầy ý nghĩa Phật giáo, sợ rằng con sớm muộn cũng bỏ cha mẹ theo đạo Phật tu hành.

Quả vậy đứa trẻ về sau trở thành nhà sư lỗi lạc Giới Đồ Lê. Nhưng ông ta không tuân theo các quy tắc như các nhà sư bình thường, trái lại, ông ta không bao giờ tuân thủ giới luật, ông ta không ăn chay mà hay ăn đầu heo và uống rượu ngon. Ông được người ta gọi là “Nhà sư đầu lợn” (Trư đầu hòa thượng 猪头和尚). Giới Đồ Lê không hề khó chịu khi nghe tai tiếng này mà còn bật cười khoái trá.

Nhà sư ăn thịt uống rượu cũng chưa đủ kinh dị, càng bại hoại tăng đoàn hơn chính là việc Giới Đồ Lê không sợ thiên hạ dị nghị, thu nữ đệ tử, và hai người thường đi chung ở chung với nhau. Nữ đệ tử này tên là Chu thất nương 周七娘, và lai lịch của cô ấy cũng khá phi thường. Cô sinh ra trong một gia đình thuần thành Phật giáo, cô từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ tuyệt vời, nhưng cô phát nguyện khi lớn lên sẽ không lấy chồng, hàng ngày đi xin ăn trên đường phố và hát nhạc Phật giáo. Mọi người đều nghĩ chắc cô ấy bị điên, nhưng Giới Đồ Lê lại rất ngưỡng mộ cô và thu nhận làm đệ tử.

Giới Đồ Lê và Chu Thất nương

Một lần, Giới Đồ Lê và Chu Thất nương ra ngoài phố và ăn một bữa no nê món tôm luộc tại một quán ăn trên phố, khi họ lấy tiền ra trả thì thấy ví không có tiền, chủ quán rất tức giận và không cho họ đi. Nhưng rồi, Giới Đồ Lê cười nói: “Không có tiền, nhưng thí chủ muốn vật gì?” Chủ quán nói: “Ta muốn ngươi bồi hoàn tôm sống cho ta!”

Giới Đồ Lê và Chu Thất nương nhìn nhau cười, xong họ ngồi xuống, và không ngừng phun ra từ miệng những con tôm còn sống tươi rói, chủ quán và những người xung quanh sợ hãi, đồng loạt quỳ xuống và kêu lên “Thần tiên ! Thần tiên !”. Giới Đồ Lê cười nói, “Bây giờ tôi đã trả lại tôm sống cho ông rồi đó.” Sau đó, ông và nữ đồ đệ vừa đi vừa hát mà không nhìn lại.

Khi Giới Đồ Lê viên tịch, những người khác đã báo tin này cho Chu Thất nương, nữ đệ tử biết tin không buồn chút nào, ngược lại, cô ấy vừa hát vừa cười. Hát xong, cô an tọa dưới dạ cầu Phổ Tế mà tịch luôn.

Sau đó có một nhà sư lạ mặt xuất hiện trên đường phố Thai Châu và hát lớn: “Sư phụ Giới, Văn Thù, Chu bà, Phổ Hiền.” Bấy giờ mọi người mới hiểu ra họ chính là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân giáo hóa người đời.

Họ giáo huấn điều gì ? Họ muốn hiển thị cho mọi người hiểu rằng đừng có chấp tướng, đừng có chấp thật, các pháp chỉ là vọng tưởng thôi, không có thực chất, bởi vì Nhất thiết pháp vô tự tính.

Tóm lại trong thời đại khoa học kỹ thuật thì Phật pháp cũng phải tùy duyên, dạy cho tín đồ ứng dụng khoa học kỹ thuật theo nguyên lý Nhất thiết pháp vô tự tính, Nhất thiết duy tâm tạo, mà tạo ra đủ mọi thứ : từ lương thực thực phẩm cho tới mọi thứ đồ vật cần dùng đủ đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, không một ai bị bỏ lại phải đói khổ. Những nguyên lý đó của Phật giáo sẽ hướng dẫn các nhà khoa học đi từ thời đại công nghiệp hóa sang thời đại tin học hóa. Sản xuất vật chất được tiến hành bằng tin học, số lượng không giới hạn và không có rác thải.  

Nho giáo cũng có dạy rằng : Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Bình thiên hạ là làm cho toàn thế giới đều ấm no hạnh phúc, hòa bình nhưng phải dựa trên nguyên lý của Phật pháp là ngũ uẩn giai không, tất cả ngũ uẩn ngã của mọi chúng sinh đều là không, tất cả các pháp đều là không thì hà cớ gì mà phải tranh giành, chém giết, chiến tranh với nhau, làm khổ lẫn nhau?  Không gian, thời gian, vật chất đều là vô lượng và con người không cần phải tranh giành.

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | 2 bình luận

BÓNG ĐÁ CHỈ RA PHẬT PHÁP

Điều mà bóng đá chỉ ra là sự vô thường, kết quả của trái bóng lăn không có gì vững chắc. Một đội bóng giỏi cũng không chắc chắn là thắng. Kết quả của những trận đấu bóng đá là bất định, có khi thì nó phù hợp với dự đoán, có khi nó trái hẳn dự đoán. Tại sao kết quả bóng đá là bất định ? Theo tôi thì đó là bí mật của vũ trụ, của không gian thời gian số lượng, của Tâm. Chúng ta thử xem kết quả của một số giải đấu gần đây.

Vòng chung kết giải  U20 châu Á 2023 được tổ chức tại Uzbekistan, diễn ra từ ngày 1-18/03/2023 gồm có 16 đội chia làm 4 bảng đấu. Trong vòng chung kết này có sự tham dự của đội U20 Việt Nam. Đội VN thuộc bảng B, đứng chung bảng với Australia, Qatar và Iran. Hai trận đầu VN toàn thắng, thắng Australia 1-0, thắng Qatar 2-1, VN tràn trề hy vọng lọt vào tứ kết. Tuy nhiên ở lượt trận thứ ba VN đã để thua Iran 1-3 trong khi Australia thắng Qatar 9-1. Trước đó Australia đã thắng Iran 3-2. Sau lượt trận thứ ba, 3 đội Iran, Australia và VN đều có 6 điểm. Tiêu chí quan trọng  sau điểm số để xếp hạng là chỉ số đối đầu giữa 3 đội này, còn Qatar đã bị loại nên không kể. Iran có 5 bàn thắng 3 bàn thua, chỉ số đối đầu là +2. Australia có 2 bàn thắng 1 bàn thua, chỉ số đối đầu là +1 . VN có 2 bàn thắng 3 bàn thua, chỉ số đối đầu là -1 . Thế nên Iran đứng đầu bảng, Australia đứng thứ hai, VN đứng thứ ba và bị loại một cách cay đắng.

Theo HLV Hoàng Anh Tuấn của U20 VN thì thể lực bị bào mòn là lý do quan trọng khiến U20 Việt Nam không thể giành kết quả tốt trước Iran. Nói đến đây, hẳn nhiều người hâm mộ có thể liên tưởng tới hình ảnh của đội U23 Việt Nam thi đấu tại VCK U23 châu Á 2018 – giải đấu gắn với chiến tích đáng nhớ bậc nhất dưới triều đại của HLV Park Hang-seo. Ở giải đấu đó, lứa Quang Hải, Văn Hậu và các đồng đội đã chiến đấu không biết mệt mỏi trước những đối thủ hàng đầu châu lục. Sau 3 trận đầy căng thẳng ở vòng bảng, U23 Việt Nam còn trải qua 120 phút cực kỳ nghẹt thở và thắng luân lưu trước Iraq ở tứ kết. Vài ngày sau, U23 Việt Nam tiếp tục vắt sức sau 120 phút rồi thắng Qatar cũng ở loạt luân lưu tại bán kết. Với nền tảng thể lực vô cùng bền bỉ, U23 Việt Nam thi đấu ngang ngửa với Uzbekistan tại trận chung kết và chỉ chịu thua sát nút đội bạn ở thời điểm phút 120 phút.

Đây chỉ là nhận xét vớ vẩn của người VN để tự an ủi, hoàn toàn không đúng với thực tế. Bởi vì lúc U23 VN thi đấu vòng chung kết U23 châu Á 2018 tại Thường Châu TQ, thì ông Park Hang-seo mới làm huấn luyện viên trưởng cho U23 VN được hai tháng, làm sao có đủ thì giờ huấn luyện thể lực cho U23 VN ? Sau 5 năm huấn luyện thể lực và chỉ đạo mọi mặt cho đội tuyển quốc gia VN thì học trò của ông đã hai lần thua tại AFF Cup 2020 (thực tế do đại dịch Covid 19 nên giải diễn ra năm 2021) và AFF Cup 2022, đều không đoạt được cúp vô địch khiến cho ông Park Hang-seo phải từ giã đội tuyển VN và được thay thế bởi huấn luyện viên người Pháp Philippe Troussier.

Điều bất thường diễn ra ở bảng D gồm 4 đội Nhật Bản, TQ, Saudi Arabia, Kyrghyzstan. Nhật Bản là đội mạnh, Saudi Arabi là đương kim vô địch của giải U20 Châu Á tổ chức tại Indonesia năm 2018 (Giải U20 năm 2020 bị hủy bỏ do đại dịch Covid-19), Saudi Arabia cũng đã 3 lần vô địch U20  (1986, 1992 và 2018). U20 TQ không được coi là đội mạnh, thành tích gần đây rất kém cỏi. Trận đầu ngày 03-03 TQ thua Nhật Bản 1-2. Điều bất ngờ xảy ra ngày 06-03 khi TQ thắng Saudi Arabia 2-0. Ở lượt trận thứ ba ngày 09-03 Nhật Bản thắng Saudi Arabia 2-1 còn TQ hòa Kyrghyzstan 1-1. Nhật Bản toàn thắng cả ba trận được 9 điểm đứng đầu bảng, TQ đứng nhì với chỉ 4 điểm nhưng vẫn vào được tứ kết vì Saudi Arabia bị loại vì có 2 trận thua chỉ được 3 điểm đứng thứ ba.

Chúng ta cũng đã từng thấy nhiều lần những đội mạnh bị loại ngay tại vòng đấu bảng. Như ở giải World Cup 2022 tại Qatar gần đây, đội Đức được coi là rất mạnh nhưng không qua nổi vòng bảng. Những đội mạnh khác như Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng bị loại sớm.

Trong giải UEFA Champions league (Vô địch bóng đá câu lạc bộ Châu Âu) ngày 09-03-2023 đội Paris Saint Germain với các danh thủ lừng danh thế giới trong đội hình là Messi và Mbappe đã thua đội Bayern Munich 0-2  vòng 1/8 Champions League trên sân Allianz Arena tại Munich, Đức. Đây là trận lượt về của Bayern Munich, trước đó trong trận lượt đi họ cũng đã thắng PSG 1-0 . Nên tổng kết hai trận Bayern Munich thắng Paris Saint Germain 3-0, đội PSG bị loại không ghi được bàn thắng nào trong cả hai lượt trận. Vậy tại sao đội PSG có trong tay những cầu thủ giỏi nhất thế giới mà họ lại thua ê chề ?    

Messi và Mbappe những cầu thủ hay nhất thế giới trong đội hình của Paris Saint Germain nhưng thua Bayern Munich 0-2

Đội Bayern Munich có thể coi là câu lạc bộ bóng đá mạnh nhất thế giới, nhưng họ có bao giờ thua không ? Câu trả lời là Có. Họ đã thua muối mặt trước một đội không lấy gì làm nổi tiếng. Bayern Munich đã thất bại trước Borussia Monchengladbach với tỷ số không tưởng 0 – 5 tại vòng 1/16 Cúp quốc gia Đức và chính thức bị loại ngày 28-10-2021.  Với Bayern, huấn luyện viên Nagelsmann đã tung vào sân đội hình có thể xem là mạnh nhất với sự góp mặt của Lewandowski, Gnabry, Sane, Muller, Kimmich, nhưng họ đã thua thảm.       

Vậy tại sao một đội bóng rất mạnh, cầu thủ rất giỏi mà vẫn thua, không phải thua 0-1 vì rủi ro tai nạn mà thua tới 5 bàn không gỡ trước một đội bóng hạng xoàng ? Ắt là phải có một bí mật nào đó. Không phải họ bán độ, chúng ta không đề cập tới vấn đề đó vì vấn đề chủ yếu nằm ở chỗ khác.

Đó là vấn đề mà Phật pháp chỉ ra : sự vô thường. Con người có nhiều điều chưa hiểu hết về không gian, thời gian, vũ trụ vạn vật. Những trận đấu diễn ra trên Địa cầu không phải là mới lần đầu diễn ra trong vũ trụ, nó đã từng diễn ra rồi, kết quả đã có sẵn rồi. Nó giống như một cuốn phim trong vũ trụ, mọi chi tiết có sẵn rồi, bây giờ được chiếu lại trên địa cầu. Messi và Mbappe dù cố gắng tới đâu cũng không ghi được bàn thắng thoát khỏi thua trước Bayern Munich. Còn các hảo thủ của Bayern cố gắng tới đâu cũng không thoát khỏi thua thảm họa 0-5 trước Borussia Monchengladbach. Đơn giản vì kết quả đã an bài trong cuốn phim vũ trụ rồi.

Đội U20 TQ không phải là đội mạnh, bằng chứng là họ may mắn cầm hòa với Kyrghyzstan 1-1 nhờ cầu thủ của đội bạn Mirlan Bekberdinov đá phản vào lưới nhà giúp TQ dẫn trước 1-0 sau đó TQ bị thủng lưới nên kết quả cuối cùng là hòa 1-1 nhưng cũng giúp họ vào được tứ kết vì trước đó họ đã may mắn thắng đội đương kim vô địch Saudi Arabia 2-0.

Những điều bất thường mà chúng ta gọi là may mắn đó thật ra đã có sẵn trong cuốn phim vũ trụ mà bây giờ chiếu lại trên Địa cầu. Có những con vật có giác quan đặc biệt, nó thấy được kết quả trong cuốn phim vũ trụ đó và tiên tri kết quả. Chẳng hạn con bạch tuộc Paul hồi World Cup Nam Phi 2010, nó tiên tri kết quả 8 trận đấu đều đúng cả. Trận cuối cùng là Tây Ban Nha- Hà Lan, nó tiên tri Tây Ban Nha thắng trước khi trận đấu diễn ra một ngày và kết quả đúng như vậy. Cuốn phim vũ trụ này không phải là viễn vông bậy bạ mà có cơ sở khoa học hẳn hòi :

Nhà vật lý Brian Greene giải thích về sự đồng thời tồn tại của quá khứ, hiện tại, tương lai          

Kinh Kim Cang từ lâu cũng nói rằng “過去心不可得,現在心不可得,未來心不可得” (quá khứ Tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc)    

Quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc bởi vì không gian, thời gian, số lượng vật chất, tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là ảo hóa do tâm tưởng tượng ra chứ không phải tuyệt đối chân thật.

Bởi vậy người sống với tâm bình thường thì luôn bình tĩnh trước mọi biến cố bởi vì tất cả mọi biến cố mọi hiện tượng, kể cả sinh tử luân hồi đều chỉ là ảo hóa do tâm tạo ra. Không phải chỉ có sự vật nhân tạo là do tâm tạo mà tất cả mọi sự vật trong vũ trụ đều là do tâm tạo.

Tâm không phải chỉ là ý thức cá nhân của một con người. Tâm là chỉ cái tâm bản nguyên, là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật mà thuật ngữ Phật giáo gọi là Vô sinh pháp nhẫn 無生法忍 Cái tâm ấy rất rộng lớn đầy quyền năng mà bên Thiên Chúa giáo gọi là Thượng Đế, bên Nho giáo gọi là Trời, bên Đạo giáo gọi là Đạo. Tâm không tạo thì không có vật gì cả, một hạt cơ bản như photon hay electron, quark, cũng không có. Nên Lục Tổ Huệ Năng nói :

本 來 無 一 物 Bổn lai vô nhất vật  Xưa nay không một vật  

何 處 惹 塵 埃 Hà xứ nhạ trần ai  Bụi trần bám vào đâu

Tóm lại người Phật tử vẫn có thể xem bóng đá. Pháp giới bình đẳng, bóng đá cũng là Phật pháp. Phật tử xem bóng đá vẫn thấy trong đó có Phật pháp, thể hiện ở những kết quả bất thường, cho thấy lẽ vô thường, đội bóng mạnh không phải lúc nào cũng thắng.  

Đăng tải tại Bài viết | Bình luận về bài viết này

CUỘC SỐNG TRUNG ĐẠO

Hai thái cực của cuộc sống con người

Đối với người sống theo sự hướng dẫn của Phật pháp thì hai cực, một bên là tánh không, một bên là hiện tượng sinh diệt ảo hóa. Trung đạo là con đường ở khoảng giữa hai cực.

Tánh không là bản thể của vũ trụ vạn vật, không có không gian, không có thời gian, không có số lượng, không có cái gì là chân thật cả, từ vũ trụ vạn vật, sông núi, sinh vật, con người, nhà cửa, đường sá, xe cộ, máy bay, tàu thủy, vật chất, năng lượng…tất cả đều là do tâm tạo, tâm tưởng tượng ra chứ không phải tuyệt đối có thật, khách quan. Điều này tuyệt đại đa số mọi người, kể cả một số nhà khoa học, không hình dung nổi, không tin nổi.      

Cuộc sống ảo hóa sinh diệt thì tất cả mọi người đều quá quen thuộc. Tất cả mọi cảnh giới vật chất và tinh thần của con người mà tuyệt đại đa số nhân loại đều cho là thật, đều chấp là thật và đều khổ vì sự chấp thật đó. Người đời đều thấm thía nỗi khổ, tới mức họ phát ra nhận thức : Người Việt nói : Đời là bể khổ. Người Hoa nói : 生活是苦难的 (Sinh hoạt thị khổ nạn đích= cuộc sống là khổ nạn). Người Anh, Mỹ nói : Life is the sea of the sufferings of birth and death. (Đời là biển khổ của sinh và tử). Người Nga nói : жизнь страдает от недостатка (Cuộc sống đau khổ vì thiếu thốn). Đây không phải là dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia mà là sự nhận thức của các dân tộc và họ phát biểu thành lời nói. Chúng ta tạm lấy những phát biểu của một số dân tộc đông người trên thế giới để thấy rằng cuộc đời là đau khổ.

Đối chiếu lại với tình hình thực tế của thế giới, chúng ta thấy rằng nhân loại hiện nay đã và đang đau khổ như thế nào ?

Trong mấy năm đại dịch covid-19 vừa qua, trên toàn cầu số người chết vì covid theo con số thống kê được là 6.780.000 người. Nhưng con số thực tế có thể gấp bội con số trên bởi vì rất nhiều trường hợp người dân nhiễm bệnh và chết mà không khai báo, không ai nắm được nên không thể thống kê chính xác được.

Cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraina đã kéo dài được một năm, đã có hàng trăm ngàn lính hai bên tử trận, hàng trăm ngàn cha mẹ vợ con của họ đau đớn khóc than cho các tử sĩ. Hai bên đã bỏ ra hàng trăm tỉ USD để trang bị vũ khí đánh giết lẫn nhau, gây đau khổ cho nhau. Đất nước Ukraina tan hoang, hàng chục triệu dân phải đi tha phương cầu thực, hàng chục triệu người dân khác còn ở lại trong nước chịu đói rét, không điện, không nước sạch, không thể liên lạc với bên ngoài, thiếu thốn trăm bề vì cơ sở hạ tầng cho đời sống đã bị phá hủy vì bom đạn.    

Theo hãng tin AP, hôm 6/2/2023, một trận động đất mạnh 7,9 độ richter đã xảy ra tại miền đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, tâm chấn nằm ở thị trấn Pazarcik thuộc tỉnh Kahramanmaras. Sau trận động đất, các khu vực xung quanh tiếp tục chao đảo vì 6 đợt dư chấn mạnh. Phía nam Thổ Nhĩ Kỳ và phía bắc Syria là hai nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sau trận động đất.

Cho tới trưa ngày  13-02-2023, số người chết vì động đất đã lên đến hơn 34.000 người. Các quan chức và nhân viên y tế cho biết 29.605 người đã thiệt mạng ở Thổ Nhĩ Kỳ và 4.574 người chết ở Syria.    

Theo Phật pháp ở mức độ cao nhất gọi là tối thượng thừa thì Nhất thiết duy tâm tạo tức là tất cả đều là do tâm tạo, tâm tưởng tượng ra tất cả mọi cảnh giới, kể cả cảnh an cư lạc nghiệp, mọi người sống bình an sung sướng; và cảnh thiên tai như động đất, sóng thần, bão tố, lũ lụt, hay cảnh nhân họa như chiến tranh Nga-Ukraina đang xảy ra, đều là do tâm tạo ra. Có nghĩa là vật chất là do tâm tạo, vũ trụ vạn vật, mặt trời, mặt trăng, trái đất đều là do tâm tạo chứ không phải là sự thật khách quan. Điều này khác với nhận thức của Einstein, ông nhầm lẫn khi nói rằng :

“Tôi thích nghĩ rằng Mặt trăng vẫn ở đó ngay cả khi tôi không đang nhìn nó”

Ý của Einstein là Mặt trăng là vật thể khách quan có thật, dù ta có nhìn nó hay không nhìn thì nó vẫn ở đó. Tuy nhiên sự thật không phải vậy. Mặt trăng cấu tạo bằng vô số hạt cơ bản như quark, proton, neutron, electron, nguyên tử, phân tử v.v…Những hạt cơ bản này không phải lúc nào cũng hiện hữu, chúng chỉ xuất hiện trong tâm thức của sinh vật, của con người chứ không phải lúc nào cũng có sẵn. Nếu không có người nhìn hay quan sát đo đạc thì những hạt cơ bản này chỉ là sóng vô hình và chúng ở khắp mọi nơi chứ không phải ở một chỗ. Và sóng này thì không có đặc điểm, đặc trưng gì cả, nghĩa là chúng không có vị trí (position), không có khối lượng (masse), không có điện tích (electric charge), không có độ xoay (spin) và không có cấu trúc nguyên tử, phân tử gì cả. Cái bản chất này thì kinh điển gọi là Nhất thiết pháp vô tự tính (tất cả các pháp đều không có đặc trưng, đặc điểm gì cả). Chỉ khi có tâm niệm của chúng sinh khởi lên thì đặc trưng mới xuất hiện và chúng mới biến thành hạt vật chất, và tùy theo tâm niệm cộng nghiệp, biệt nghiệp của chúng sinh mà các hạt cơ bản mới có đặc trưng như  có vị trí từ đó tạo ra không gian, và chúng chuyển động từ đó tạo ra thời gian. Như vậy vật chất, không gian, thời gian chỉ là tâm niệm chứ không phải sự thật tuyệt đối.

Và cũng không phải chỉ có Phật pháp nói, mà các nhà khoa học tiên tiến nhất cũng có nói. Chẳng hạn nhà khoa học nổi tiếng Niels Bohr nói : Hạt cơ bản khi bị cô lập thì trừu tượng. “Isolated material particles are abstractions”. Bị cô lập tức là tách khỏi sự nhận thức của chủ thể, của con người. Thí nghiệm hai khe hở (Double slit experiment) nổi tiếng đã chứng tỏ cho sự nhận định này của Bohr.   

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Khoa học hiện đại, nhất là cơ học lượng tử đã xác nhận rằng quan điểm của Bohr là đúng đắn (hạt cơ bản khi ở dạng sóng khi bị cô lập không có người quan sát thì là trừu tượng (abstractions) không phải là vật. Còn quan điểm của Einstein (hạt cơ bản luôn luôn có sẵn đặc trưng) là sai. Như vậy trong vũ trụ không có cái gì là khách quan cả kể cả toán học cũng chỉ là chủ quan chứ không phải là khách quan. Ví dụ toán học có đẳng thức mà họ cho là chắc nịch :

1+1=2

1 (một) là gì ? Nhiều quan điểm triết học cũng như Phật pháp đều nói rằng : Một là tất cả. Tất cả chúng sinh chỉ là một tâm. Phật pháp có nguyên lý bất nhị (không hai).  Thuyết Big Bang về sự thành lập vũ trụ cũng nói : Vũ trụ khởi nguyên chỉ là một hạt cực vi hay còn gọi là điểm kỳ dị (singularity), có thể coi nó là một hạt cơ bản sơ khai và nó biến thành vô số hạt trong vũ trụ. Như vậy vũ trụ phải là ảo.  

Thí nghiệm về liên kết lượng tử (quantum entanglement) cũng nói một hạt photon có thể xuất hiện đồng thời ở vô số vị trí khác nhau trong không gian. Như vậy 1, 2, số ít (singular) hay số nhiều (plural) chỉ là những khái niệm chủ quan tùy tiện của toán học, chẳng có gì là khách quan cả. Nghĩa là con số 1,2 v.v…chỉ là tâm niệm do con người gán ghép chứ không phải sự thật. Ví dụ chúng ta có một tấm ảnh, chúng ta đưa nó lên facebook, vậy thì bao nhiêu người có thể nhìn thấy ? nó sẽ trở thành bao nhiêu tấm ảnh ? Tương tự như vậy, nếu chúng ta có một cái bánh, đưa lên mạng thì nó sẽ trở thành bao nhiêu cái bánh ? Bây giờ thì nhân loại chưa đưa được cái bánh lên mạng, nhưng tương lai, ai dám nói rằng sẽ không bao giờ đưa được cái bánh lên mạng ?   

Những người theo pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ tông tin rằng ở thế giới Tây phương cực lạc chúng sinh có thể dùng tâm niệm để tạo ra nhà cửa cung điện, thực phẩm, quần áo. Điều đó hoàn toàn có cơ sở khoa học chứ không phải chỉ là niềm tin tôn giáo. Trong thế giới của chúng ta ngày nay cũng có một số các nhà khoa học tin rằng vũ trụ là số, vũ trụ có bản chất là thông tin. Khi con người chế tạo được máy tính lượng tử cực mạnh thì họ có thể biến thông tin thành vật chất. Thế có nghĩa là con người trong tương lai có thể dùng máy in lượng tử để in ra tất cả những thứ mà con người cần dùng, từ lương thực thực phẩm, quần áo, giày dép, đồ dùng, nhà cửa, xe cộ với số lượng không hạn chế, có thể đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, không một người nào bị bỏ lại, vì họ đã ứng dụng được nguyên lý không có số lượng.   

Ý nghĩa của con số        

Con số hay số lượng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không phải chỉ liên quan tới toán học, kế toán mà thôi. Con số là toàn bộ cuộc sống của con người. Con số hay số lượng cũng chính là tâm. Không gian cũng là tâm, thời gian cũng là tâm, vật chất cũng là tâm được con số diễn tả. Ví dụ chúng ta nói : Tôi có một cái nhà, một cái xe máy, một cô vợ và hai đứa con. Tôi (ngũ uẩn ngã), cái nhà, cái xe, vợ, con. Tất cả đều là tâm thức và đều có thể biểu thị bằng con số. Tất cả tri thức, tâm niệm của con người cũng đều có thể biểu hiện bằng con số. Hiện nay, công cụ Chat GPT (Generative Pre-training Transformer), sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) là dự án được phát triển bởi OpenAI, một công ty nghiên cứu trí tuệ nhân tạo có đội ngũ sáng lập bao gồm tỷ phú công nghệ Elon Musk, đang gây sốt trên toàn cầu là một thí dụ.

Những con số cơ bản của hệ nhị phân 0 và 1 có thể biểu diễn cho tất cả những thứ đó. Đương nhiên số lượng con số là cực kỳ lớn mà máy tính điện tử hiện nay không biểu diễn nổi nhưng người ta hy vọng là máy tính lượng tử trong tương lai sẽ đủ nhanh để biểu diễn được.

Nguyên lý bất nhị của Phật pháp nói rằng vật chất và tinh thần không phải là hai (bất nhị) nên tinh thần có thể biến thành vật chất và ngược lại. Trong tin học thì phần cứng (thiết bị bằng vật chất) và phần mềm (app. = application= ứng dụng) cũng không phải là hai nên cũng có thể thay thế cho nhau. Ví dụ các music player có thể phát nhạc giống như cái cassette. Nên trên smartphone ngày nay người ta toàn dùng music player để phát nhạc nên không cần tới cassette nữa. 

Phật pháp nói : Nhất thiết duy tâm tạo, hoặc nói Vạn pháp duy thức. Ý nghĩa của những lời nói đó là muốn nói Vũ trụ là thông tin, cũng tức là nói Vũ trụ là số, vũ trụ là toàn ảnh (The holographic universe), vũ trụ là số lượng. Con số (0, 1) làm nên vũ trụ.      

Tâm là thông tin, thức là thông tin. Thông tin của tâm là làn sóng đồng nhất vô định hình (chưa có đặc trưng, chưa có không gian, thời gian, số lượng). Thông tin của thức là hạt cơ bản của vật chất đã có tâm niệm, đã có đặc trưng, đã có không gian, thời gian, số lượng. Nên thông tin của thức là vũ trụ vạn vật. Vũ trụ vạn vật, cuộc sống nhân sinh là hình tướng nhưng bản chất của nó vẫn là thông tin, là tâm, là số.

Cuộc sống giác ngộ là trung đạo    

Trên đây chúng ta đã phân tích hai thái cực của cuộc sống. Một bên là bản chất tánh không, không có gì là thật. Tánh không thì không có gì là sướng khổ, đúng sai, tốt xấu, thiện ác cả. Một bên là hiện tượng thiên hình vạn trạng, phân biệt đủ mọi khía cạnh sướng khổ, thiện ác, tốt xấu của nhân sinh. 

Nếu chấp không thì không có cuộc sống, không có gia đình, vợ con, chồng con gì cả, không có sự tiến bộ, không có cuộc sống văn minh. Cái xã hội đó ngàn năm cũng không thay đổi, điển hình là bộ lạc Kogi ở Colombia Nam Mỹ. Người của xã hội đó sống khỏe mạnh, hạnh phúc, không có chiến tranh. Thật ra xã hội đó cũng không phải hoàn toàn chấp không, chỉ là hạn chế sở hữu ở mức tối thiểu. Nhưng có ai trong chúng ta muốn đến gia nhập vào xã hội đó không ?

Còn nếu chấp có thì xã hội văn minh tiến bộ như chúng ta thấy ngày nay nhưng con người cũng rơi vào những cảnh khổ như mô tả ở phần đầu. Ngoài ra Sinh lão bệnh tử là quy luật không ai thoát khỏi. Có nhiều người rơi vào hoàn cảnh bế tắc không lối thoát, phải chọn giải pháp tự tử.

Cho nên thực tế là không thể chấp một bên. Chấp một bên là biên kiến. Biên kiến cũng tức là tà kiến không thể giác ngộ. Thế nên từ xa xưa Bồ Tát Long Thọ (龍樹 nāgārjuna, không phải Na Tiên tỳ kheo那先 Nāgasena) sống vào khoảng thế kỷ thứ hai Công nguyên tại Andhra Pradesh Ấn Độ đã đưa ra giải pháp Trung Đạo được trình bày trong tác phẩm Trung Quán Luận, tên gọi đầy đủ theo tiếng Phạn là mūlamadhyamakakārikā (中觀根本論 Trung quán căn bản luận).

Trung Quán Luận của Long Thọ Nàgàrjuna Bồ Tát là một bộ luận rất dài gồm 27 phẩm (chương) với tất cả 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ, tổng cộng 1784 câu. Bộ kinh này đã được Cưu Ma La Thập 鳩摩羅什 Kumārajīva (344-413CN) dịch ra Hán văn. Lý luận rất trừu tượng khó nắm bắt. Vì vậy các vị đại luận sư Ấn Độ sau Long Thọ giải thích Trung Quán Luận với rất nhiều bất đồng làm rối trí hàng hậu học. Do đó đọc Trung Quán Luận cần nắm được yếu chỉ của tác phẩm hơn là đọc hết 446 bài kệ.

Chúng ta chỉ cần trích ra một hai bài kệ để hiểu ý nghĩa căn bản của bộ luận.    

Phẩm thứ nhất : Phá Nhân Duyên

Bài này phá cái ý chấp thật về vũ trụ, về nhân duyên, về vật chất, về các pháp

不生亦不滅 Bất sinh diệc bất diệt           Không sinh cũng không diệt

不常亦不斷 Bất thường diệc bất đoạn   Không tồn tại mãi cũng không tiêu mất

不一亦不異 Bất nhất diệc bất dị             Không đồng nhất cũng không khác nhau

不來亦不出 Bất lai diệc bất xuất              Không đến cũng không đi

諸法不自生 Chư pháp bất tự sinh           Các pháp không tự sinh ra

亦不從他生 Diệc bất tòng tha sinh           Cũng không phải do vật khác sinh ra

不共不無因 Bất cộng bất vô nhân           Không phải cộng sinh cũng không phải tự nhiên mà có

是故知無生 Thị cố tri vô sinh                     Vì vậy biết là vô sinh

Bài kệ này mô tả khái quát vũ trụ vạn vật điển hình là cõi thế gian. Vũ trụ không có sự sinh thành cũng không có sự tiêu vong. Thuyết Big Bang của khoa học mô tả sự sinh thành của vũ trụ, nhưng đó chỉ là mô tả, không phải thực tế, mô tả đó chỉ là vọng tưởng của bộ não con người không phải là tất cả sự thật. Bài kệ nói về thắng nghĩa của vũ trụ vạn vật, nó không tự sinh ra cũng không mất đi, cũng không phải do vật khác sinh ra, cũng không phải do nhân duyên hòa hợp giữa hai vật mà thành (cộng sinh), cũng không phải tự nhiên mà có (vô nhân). Vì vậy nên biết là vô sinh tức chỉ là ảo tưởng, là tưởng tượng không có thật.   

Tóm lại bài kệ nói rằng vật chất không có thật, chỉ là do con người tưởng tượng ra thôi. Chư pháp bất tự sinh, ý nói hạt cơ bản không có tự tính, không có đặc trưng, nó không phải tự sinh. Cũng không phải có cái gì khác sinh ra hạt cơ bản (diệc bất tòng tha sinh). Hạt cơ bản như electron chỉ là do người quan sát tưởng tượng ra chứ không phải có thật. Vì vậy nên biết rằng vũ trụ là vô sinh, chỉ là tưởng tượng chứ không có thật.

Vật chất không có thật nên thời gian, số lượng, không gian cũng không có thật,

-Không thường tồn, cũng không đoạn diệt (bất thường diệc bất đoạn), bởi vì thời gian không có thật.

-Không phải là một cũng không phải nhiều (bất nhất diệc bất dị) bởi vì số lượng không có thật.

-Không đến không đi (bất lai diệc bất xuất) bởi vì không gian không có thật.   

Trong bộ luận này, Long Thọ muốn phá ngã chấp và pháp chấp. Người thế gian chấp ngã, cho là ta có thật. Đó là do cái thấy bị hạn chế. Ở đời quá khứ thì chỉ biết quá khứ, chấp cái hình tướng của quá khứ là ta. Ở thời hiện tại chấp cái thân ngũ uẩn là ta. Ở đời vị lai thì chỉ biết vị lai, chấp cái hình tướng vị lai là ta. Nếu lìa hình tướng thì làm sao phân biệt cái nào là ta. Không biết ta là thế nào, thế thì cả quá khứ, hiện tại, vị lai đều không có ta. Ta chỉ là cái mà mình tự lãnh thọ, tự gán ghép, tự tưởng tượng chứ không có thực chất, chỉ là sự sinh diệt ảo ảnh của thân, sao cứ nhận bừa là ta ?

Ngoài chấp ngã, người đời còn chấp pháp. Pháp là tất cả sự vật, hiện tượng kể cả vật chất và tinh thần, Long Thọ gọi chung là trời, ý chỉ vũ trụ vạn vật. Trời là sẵn có (khoa học gọi là trường thống nhất- unified field), vô sinh, bất diệt. Nếu người cũng là trời thì rơi vào thường kiến tức là cho rằng người (ngã) tồn tại mãi mãi. Nếu người khác với trời thì ắt là ngã không tương tục, không thường hằng, là vô thường. Nếu vũ trụ là nửa trời nửa người thì rơi vào nhị biên, bất định giữa thường và vô thường. Nếu hai mặt đối lập thường và vô thường cùng tồn tại, thì đó không phải là mâu thuẫn mà là bổ sung cho nhau (ứng thành). Xét cả ba trường hợp (thường, đoạn, bất định) đều không phải, thì rút ra kết luận là vũ trụ không phải thường, cũng không phải vô thường.

Vì bản chất của tất cả các pháp đều là không, nên những hiện tượng sự vật thường thấy trong không gian (vị trí xác định nơi nào) và trong thời gian (ngày tháng năm nào) là do ai khởi lên những cái thấy đó ? Câu hỏi này tạo ra một nghi tình, nếu không phải là ta (phần trên đã phá ngã chấp và pháp chấp) thì là do đâu ? Buông bỏ tất cả sự chấp trước, nghi tình này có thể dẫn đến giác ngộ thành Phật. Trung đạo cũng không phải ở ngay chính giữa mà là vô sở trụ.

Kết luận

Toàn bộ Trung Quán Luận đều là phá chấp. Không thể chấp vào lục căn, không thể chấp lục trần, không thể chấp ngũ uẩn, không thể chấp nhân duyên, không thể chấp nhân quả, không thể chấp nghiệp báo, không thể chấp vũ trụ vạn vật là Có hay Không Có. Tất cả mọi chấp trước đều lọt vào nhị biên và đều là tà kiến. Vậy phải làm sao ? Đây là một sự thúc bách gây chấn động thân tâm, làm tê liệt nhận thức, tê liệt tư duy của bộ não. Tư duy không còn cách nào khác ngoài việc dừng lại, bất lực. Tàng thức (a-lại-da), tiềm thức chấp ngã (mạt-na), ý thức và tiền ngũ thức, tất cả đều dừng lại, và …trực há thừa đương, hoát nhiên đại ngộ. Đó là cứu cánh của Trung Quán Luận.

Tóm lại cuộc sống trung đạo là không thiên chấp, không biên kiến, không lệch về bên ác cũng không lệch về bên thiện, bởi vì thiện ác đều là tương đối do tâm tưởng tượng ra thôi, cứ sống bình thường tự do tự tại, không bị cái gì trói buộc, kể cả sinh tử cũng không trói buộc. Cổ nhân đã tổng kết cuộc sống đó bằng một câu thật giản dị : bình thường tâm thị đạo.  

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | Bình luận về bài viết này

KHÁCH QUAN KHÔNG PHẢI LÀ KHÁCH QUAN

Chúng ta đã quen với khái niệm khách quan (objective concept). Khái niệm này muốn nói có những sự vật (object) hay sự kiện (fact) ở ngoài ý nghĩ, ngoài tâm niệm, suy nghĩ của ta không thể làm nó thay đổi. Trái ngược với khách quan là chủ quan (subjective).

Nhà triết học nêu lên chủ nghĩa duy vật khách quan (objective materialism) nổi tiếng là Karl Marx. Nhà khoa học tin tưởng vào vật chất khách quan (objective matter) là Albert Einstein, đây là nhà khoa học được đánh giá là vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ 20.  

Cho tới tận bây giờ vẫn còn rất nhiều người tin tưởng vào Karl Marx và Einstein. Hai người này có cùng lập trường về vật chất khách quan nhưng khác nhau ở chỗ Karl Marx là vô thần còn Einstein tin có Thượng Đế (God) nhưng với Einstein Thượng đế không phải là đấng thần linh mà là những quy luật vô hình chi phối thế giới vật chất và tinh thần, tâm linh của vũ trụ.

Chúng ta không cần phải nói về Karl Marx vì chủ thuyết của ông dựa vào tri thức khoa học của các khoa học gia trước ông hoặc cùng thời như Cơ học cổ điển của Newton, Sinh Vật Tiến Hóa Luận của Darwin, tất định luận của Laplace. Chúng ta chỉ cần xem xét lập luận của nhà khoa học vĩ đại nhất của nhân loại là Einstein, nếu lập luận về vật chất khách quan của Einstein không đứng vững thì tất nhiên lập trường của Karl Marx cũng sụp đổ.

Chúng ta dựa vào cuộc tranh luận khoa học lớn nhất của thế kỷ 20 giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Albert Einstein và Niels Bohr để biết lập trường của hai người. Họ tranh luận về vấn đề gì ?

Einstein có tuyên bố 2 câu quan trọng mà dựa vào đó chúng ta biết lập trường của ông.

1/Trong một bức thư năm 1945, Einstein viết (nguyên văn) “God tirelessly plays dice under laws which he has himself prescribed.” (Chúa chơi xúc xắc không mệt mỏi theo luật mà chính Ngài đã lập ra)

2/ “Tôi thích nghĩ rằng Mặt trăng vẫn ở đó ngay cả khi tôi không đang nhìn nó”

Câu thứ nhất cần giải thích thêm, câu nguyên văn của Einstein nói Chúa có chơi xúc xắc nhưng theo một quy luật xác định do ngài lập ra. Vậy ý của ông là thế giới vẫn là xác định, còn việc Chúa chơi xúc xắc chỉ là xác suất thống kê thôi, chứ ông không đồng ý với một số nhà khoa học khác nhất là Niels Bhor. Theo quan điểm của Bhor, thế giới là bất định. Hạt cơ bản khi bị cô lập thì trừu tượng. “Isolated material particles are abstractions” (Niels Bohr). Bị cô lập tức là tách khỏi sự nhận thức của chủ thể, của con người. Thí nghiệm hai khe hở (Double slit experiment) nổi tiếng đã chứng tỏ cho sự nhận định này của Bohr.   

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Để rõ ràng minh bạch, chúng ta cần biết Einstein và Bohr có một cuộc tranh luận lớn nhất thế kỷ 20 về vấn đề hạt cơ bản của vật chất luôn luôn có sẵn đặc trưng đặc điểm hay nó không có sẵn, chỉ khi có người quan sát, đặc trưng mới xuất hiện.

Quan điểm của Bhor nói rằng hạt cơ bản không có sẵn đặc trưng, chỉ khi nào có người quan sát thì đặc trưng mới xuất hiện, đó là quan điểm cho rằng thế giới là bất định.

Quan điểm của Einstein là hạt cơ bản như photon hay electron luôn luôn có sẵn đặc trưng. Quan điểm đó muốn nói thế giới là xác định, là khách quan. Câu tuyên bố thứ 2 của Einstein nói về Mặt trăng nói rõ lập trường của Einstein, ông cho rằng Mặt trăng là vật thể khách quan. Chính vì lập trường của Einstein thiên về quan điểm cho rằng thế giới là xác định nên các nhà khoa học đã chỉnh sửa câu tuyên bố số 1 của ông thành “God does not play dice with the universe.” (Chúa không chơi trò xúc sắc với vũ trụ) để cho lời nói và quan điểm của ông nhất quán với nhau. Video sau đây của nhà vật lý Brian Greene chứng tỏ lập trường của Einstein cho rằng thế giới là xác định.  

Einstein giải thích sự liên kết lượng tử bằng lý luận về đôi găng tay

Có lẽ tất cả chúng ta, tuyệt đại đa số nhân loại đều cho rằng lập trường của Einstein là đúng đắn, Mặt trăng là vật thể khách quan. Nhưng con người không ngờ rằng đến năm 1982 lúc cả Einstein và Bohr đều đã qua đời (Einstein mất năm 1955, Bohr mất năm 1962) thì tại Paris, Alain Aspect đã tiến hành cuộc thí nghiệm về liên kết lượng tử, lần đầu tiên chứng tỏ cho thế giới thấy không gian, thời gian, số lượng, không có thật, các đại lượng đó chỉ là khái niệm chủ quan của con người, rằng  lập trường của Einstein là sai, Bohr mới đúng. Đặc trưng của hạt cơ bản chỉ xuất hiện khi có người quan sát, Thế giới bề ngoài thấy có vẻ xác định nhưng bản chất thật sự là bất định. Tiến sĩ vật lý Amit Goswami cũng đã chỉ rõ khi nào thì hạt electron mới xuất hiện và xác định được vị trí trong video sau :

Tiến Sĩ Amit Goswami Nói Về Tính Chất Electron

Vô hình trung quan điểm của Bohr phù hợp với Phật giáo. Vũ trụ vạn vật là do tâm tạo, tùy theo thói quen của tâm (tập khí) thế nào thì thế giới sẽ hiện ra thế ấy. Điều đó cũng giải thích tại sao cảnh giới tùy theo nghiệp (tập khí) mà xuất hiện.     

Vũ trụ bao gồm không gian, thời gian, số lượng, vật chất, đều là do tâm tạo. Tâm không tạo thì không có vũ trụ.

Thế giới, cả vật chất và tinh thần đều là tâm, là thức, thì hiển nhiên vật chất là thông tin, thông tin là vật chất, hai thứ này có thể chuyển hóa cho nhau, cũng tương tự như sự chuyển hóa giữa vật chất và năng lượng.

Từ Thông tin về Cái Ví Da có thể Phục hồi Cái Ví Da Vật chất

Thí dụ về cái ví da ném vào hố đen của nhà khoa học Brian Greene là một lập luận cho rằng một vật thể bằng vật chất có hai hình thức hiện hữu, một là hình thái vật chất trong không gian 3 chiều mà chúng ta đã quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của con người, hai là hình thái thông tin tương tự như thông tin trong các thiết bị tin học mà con người cũng đã bắt đầu quen thuộc từ cuối thế kỷ 20, thông tin thuộc không gian 2 chiều tức nằm trong mặt phẳng. Ông tin rằng từ hình thái thông tin này vật thể có thể hoàn toàn khôi phục hình thái vật chất. Quan điểm của Brian Greene phù hợp với nguyên lý bất nhị của Phật giáo.

Hiện nay khoa học chưa chuyển hóa được giữa thông tin và vật chất. Đó là việc chưa làm được vào lúc này chứ không phải vĩnh viễn không thể làm được. Lý do chưa làm được là vì số lượng thông tin của một vật thể vật chất cực kỳ lớn, vượt xa khả năng xử lý của máy tính điện tử hiện nay. Ngoài ra người ta cũng nhận ra rằng thông tin về một vật thể có dạng giống như một toàn ảnh (holography). Và vũ trụ mà chúng ta sống trong đó cũng là một vũ trụ toàn ảnh (the holographic universe).

Kết luận

Chúng ta đều biết rằng Albert Einstein là nhà khoa học vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Ông là tác giả của một phương trình thế kỷ tuy rất đơn giản nhưng vô cùng nổi tiếng :

Đây là phương trình thế kỷ  E=mc2 thể hiện mối tương quan giữa năng lượng và vật chất, là khởi đầu của bom nguyên tử cũng như của các nhà máy điện nguyên tử. Ông cũng từng đoạt giải Nobel về Vật Lý  năm 1921 “cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện”. Công trình về hiệu ứng quang điện của ông mang tính bước ngoặt khai sinh ra lý thuyết lượng tử. Nó chứng minh rằng ánh sáng vừa là sóng vừa là hạt, khi ánh sáng là hạt nó tạo ra hiệu ứng quang điện, tức tạo ra sự chuyển động của hạt electron, tạo ra dòng điện. Các tấm pin mặt trời là ứng dụng của hiệu ứng này.  

Ngoài ra ông có những công trình khoa học rất nổi tiếng, đó là Thuyết Tương Đối Hẹp (Theory of Special Relativity 1905), Thuyết Tương Đối Rộng (The General Theory of Relativity 1916). Ông có những tiên đoán chính xác mà về sau khoa học xác nhận như : Tia sáng bị cong khi đi qua vùng có lực hấp dẫn mạnh, chẳng hạn tia sáng đi qua gần mặt trời thì bị cong.

Ông cũng dự đoán có sự hiện hữu của sóng hấp dẫn (gravitational waves) mà mãi 100 năm sau khoa học mới thực sự phát hiện ra sóng hấp dẫn vào năm 2016.

Mặc dù Einstein rất tin tưởng ở Phật giáo. Ông nói :

“Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu với nhu cầu của khoa học hiện đại, đó có lẽ là Phật giáo”

Nhưng rất tiếc là ông chưa thấu triệt Phật giáo tối thượng thừa. Trung tâm của tư tưởng Phật giáo là Tâm, là tánh không.

Phật giáo nói Nhất thiết pháp vô tự tính nghĩa là các hạt cơ bản của vật chất cũng không hề có sẵn đặc trưng đặc điểm gì cả, chỉ khi có người quan sát thì đặc trưng mới xuất hiện. Einstein không biết câu nói này của Phật giáo nên ông đã thua Niels Bohr trong cuộc tranh luận khoa học lớn nhất thế kỷ 20.

Phật giáo nói Nhất thiết duy tâm tạo, điều đó có nghĩa là vật chất, vũ trụ vạn vật cũng là do tâm tạo, tâm tưởng tượng ra vũ trụ vật chất, mặt trời, mặt trăng chứ không có gì là khách quan ở ngoài tâm cả. Câu nói của ông về mặt trăng đúng với thường nghiệm của người đời, nhưng đó chỉ là chủ quan tập thể của một số đông người chứ không phải là tuyệt đối khách quan.

Phật giáo nói Ngũ uẩn giai không nghĩa là : Ngũ uẩn 五蘊 pañca-skandha là 5 tập hợp tạo thành cái ta của chúng sinh của con người, gồm có :

-Sắc  色 rūpa : vật chất, phần hữu hình của ngũ uẩn.

-Thọ 受 vedanā : cảm giác, thông tin do thân thể tiếp xúc với bên ngoài và cả bên trong cơ thể thể hiện bằng dòng điện tín hiệu.

-Tưởng 想 saṃjñā : tưởng tượng, suy nghĩ, thông tin của 5 giác quan được bộ não tiếp thu và xử lý, phân biệt thành tưởng uẩn

-Hành 行 saṃskāra : chuyển động, di chuyển, hoạt động, vật chất hiện hữu là do chuyển động, cảm giác, suy tưởng cũng đều là do hoạt động của cả 5 uẩn

-Thức 識 vijñāna : phân biệt, nhận thức, sự hoạt động phối hợp của 5 uẩn đem lại khả năng phân biệt, nhận thức của con người về bản thân và thế giới chung quanh. Bản thân tức là ngã 我, thế giới chung quanh tức là pháp giới 法界Dharmadhātu   

Tất cả 5 uẩn đều là giả tạm không có thật do tâm niệm tạo ra chứ không phải tuyệt đối có thật

Tóm lại cái mà mọi người cho là khách quan, thực tế chỉ là chỉ là chủ quan tập thể nghĩa là có đông người thấy giống như nhau chứ không phải tuyệt đối khách quan. Điều này nhà khoa học Niels Bohr đã nói : Hạt cơ bản khi bị cô lập thì trừu tượng. “Isolated material particles are abstractions” (Niels Bohr). Bị cô lập tức là tách khỏi sự nhận thức của chủ thể, của con người. Hạt cơ bản là vật chất, là do tâm niệm tạo ra, không có tâm niệm thì hạt cơ bản, vật chất chỉ là trừu tượng không có thật. Các nhà khoa học hiện đại cũng có làm ra một video để minh họa cho khái niệm Nhất thiết duy tâm tạo.

Vạn Pháp Duy Thức  

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | Bình luận về bài viết này

BA MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI ĐỜI

Từ thời xa xưa Đạo Đức Kinh của Lão Tử đã ghi : 上 士 聞 道, 勤 而 行 之. 中 士 聞 道, 若 存 若 亡. 下 士 聞 道, 大 笑 之. 不 笑, 不 足 以 為 道 (Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn, nhược vong. Hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi Đạo) Nghĩa là : Bậc thượng sĩ (người có nhận thức cao) nghe Đạo chuyên cần thực hành. Trung sĩ (người có nhận thức trung bình) nghe Đạo có khi nhớ có khi quên. Hạ sĩ (người có nhận thức thấp) nghe Đạo cười lớn coi thường nó. Không cười không đủ là Đạo.

Như vậy Lão Tử đã chia khả năng nhận thức của người đời thành 3 hạng là Thượng, Trung, Hạ.

Hạ sĩ là bậc phổ thông, bình dân chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội.

Có phải bậc hạ sĩ vì thiếu kiến thức nên khả năng nhận thức còn thấp kém ? Không hẳn như vậy. Khả năng nhận thức là một thói quen tâm lý, khi một người nhận ra là mình còn thiếu hiểu biết muốn tìm hiểu thêm thì mới có thể tiếp thu tri thức mới. Còn đại đa số hạ sĩ không nghĩ như vậy, họ chỉ muốn biết những gì mình thích, không thích thì thôi không cần tìm hiểu. Bằng chứng là hiện nay đã có mạng internet, tri thức trên mạng là vô tận, nhưng số lượng hạ sĩ vẫn đông như ngày xưa. Họ có thể biết thêm một số điều mới nhưng những điều đó chỉ mở rộng kiến thức một chút chứ không nâng cao tầm nhận thức. Tại sao tầm nhận thức không thể nâng cao ? Vì độ phức tạp của tri thức tăng theo cấp lũy thừa chứ không phải tăng theo cấp số cộng. Ví dụ :

-Từ cơ học cổ điển của Newton đến thuyết Tương đối của Einstein có một bước nhảy, thuyết tương đối khó hiểu hơn rất nhiều so với tri thức khoa học thông thường.

-Từ thuyết tương đối của Einstein đến Cơ học lượng tử có thêm một bước nhảy nữa. Vật lý lượng tử hoàn toàn khác với Vật lý cổ điển, đến nỗi người như Einstein cũng không tin nổi thuyết lượng tử. Thế nên năm 1935 Einstein cùng với Podolsky và Rosen đưa ra giả thuyết EPR (tên tắt của Einstein–Podolsky–Rosen) nhóm này muốn bác bỏ hiện tượng liên kết lượng tử (còn gọi là rối lượng tử) cho rằng hiện tượng đó không có thật, không thể giải thích được (Spooky action at a distance = Hành động ma quái từ xa).   

Hạ sĩ không thể hiểu Thuyết tương đối càng không thể hiểu Thuyết lượng tử. Trung sĩ có thể hiểu thuyết tương đối nhưng không hiểu và không chấp nhận thuyết lượng tử.

Về phương diện tôn giáo, chẳng hạn Phật giáo cũng có những loại kinh điển khác nhau dành cho ba hạng người như vậy.

-Tứ Diệu Đế là dành cho hạ sĩ vì nó dễ hiểu dễ tiếp thu. Nói Đời là bể khổ thì ai cũng có thể hiểu được. Nói nguyên nhân của khổ là do ái dục, tham lam, ham muốn thì cũng tương đối dễ hiểu. Vậy muốn thoát khổ thì phải từ bỏ ái dục, hợp lý quá. Tu đạo, đắc đạo đạt tới Niết bàn là kết quả của sự tu tập. Dễ hiểu, hợp lý, dễ thuyết phục, phải vậy không ?

-Thập nhị nhân duyên dành cho trung sĩ vì nó phức tạp khó hiểu hơn nhưng gần với thực tại phức tạp hơn.

Thập nhị nhân duyên là 12 mắt xích liên hoàn trói buộc con người trong vòng sinh tử luân hồi. Khởi đầu là vô minh rồi tới hành, thức, danh sắc, lục nhập…rồi tới sanh khởi, lão tử (già chết). Mỗi mắt xích là một khái niệm khá phức tạp mà người bình thường khó nắm bắt.

-Tối thượng thừa dành cho thượng sĩ. Nó đề cập tới những khái niệm trái ngược với thường nghiệm, vô cùng khó hiểu, người bình thường không thể tưởng tượng nổi, nhà khoa học số 1 của nhân loại là Einstein cũng không thể tin nổi. Đó là những khái niệm gì ? Bất nhị, vật chất và tinh thần, tâm và vật không phải là hai. Vô sở trụ (non locality) ý nói không gian, thời gian, số lượng, đều không phải tuyệt đối chân thật nên hành giả không có chỗ trụ, tâm không có chỗ trụ (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm 應 無 所 住 而 生 其 心). Vật không có thật (non realism), không gian thời gian không có thật (non locality), số lượng không có thật (non quantity). Làm sao người bình thường có thể hiểu và tin nổi những khái niệm như vậy ?

Nhưng đó không phải chỉ là những khái niệm huyễn hoặc do tôn giáo đưa ra để mê hoặc tín đồ đi vào nẻo Đạo xa rời thực tế. Năm 2022 Giải Nobel Vật lý đã trao cho ba nhà khoa học có liên quan tới lượng tử là John Clauser người Mỹ, Alain Aspect người Pháp và Anton Zeilinger người Áo. Họ đã góp phần vào cuộc thí nghiệm liên kết lượng tử còn gọi là rối lượng tử (quantum entanglement) để cuối cùng nhân loại rút ra được những kết luận cực kỳ quan trọng.

John Clauser đã chế tạo được cái máy nó có thể làm cho một hạt photon xuất hiện đồng thời ở hai vị trí khác nhau trong không gian. Rồi ông dùng bất đẳng thức của John Bell áp dụng vào cái máy của mình để chứng minh giả thuyết EPR của nhóm Einstein–Podolsky–Rosen là sai, nhóm này muốn bác bỏ hiện tượng liên kết lượng tử nhưng cố gắng của họ thất bại.

Năm 1982 Alain Aspect  làm lại một thí nghiệm liên kết lượng tử kỹ càng hơn tại Paris để chứng tỏ rõ ràng hiện tượng quantum entanglement là có xảy ra thật.     

Năm 2012 Anton Zeilinger làm lại thí nghiệm liên kết lượng tử với hai photon ở khoảng cách khá xa là 89 miles (143km), kết quả cũng giống như Alain Aspect. Từ thí nghiệm này người ta rút ra được 3 kết luận rất quan trọng

-Vật chất (hạt photon hay hạt electron…) là không có thật (non realism) chỉ là do tâm niệm tạo ra (thấy rõ qua thí nghiệm 2 khe hở). Từ đó suy ra nguyên tử, phân tử, vật thể, vũ trụ vạn vật, cũng chỉ là tâm niệm (vạn pháp duy tâm) không có thực thể, không tuyệt đối có thật.

-Không gian và thời gian đều không có thật do tính chất bất định xứ (non locality) của hạt. Hạt photon hay hạt electron ở dạng sóng thì ở khắp nơi không có vị trí nhất định. Khoảng cách 143 km giữa hai photon chỉ là khoảng cách ảo không có thật, khoảng cách đó chỉ là vọng tưởng của người quan sát. Chính vì không gian không có thật nên một tác động vào hạt A thì hạt B cũng bị tác động tức thời không mất thời gian.

-Số lượng không có thật (non quantity) tất cả các hạt đều là ảo vì một hạt photon cũng là 2 hạt, 100.000 hạt hay vô lượng hạt. Không có hạt nào là thật cả.   

Ba kết luận này của Vật lý lượng tử khó hiểu khó tin đến mức nhiều nhà khoa học hiện nay vẫn không hiểu không tin. Ngay cả John Clauser cũng không tin nổi kết quả của chính mình tìm thấy.

Không gian thời gian số lượng không có thật, hiện nay đã được ứng dụng rất phổ biến trên mạng internet và mạng di động toàn cầu bao gồm wifi và 3G, 4G, 5G. Người sử dụng internet không bị hạn chế về không gian và thời gian. Dù chúng ta ở bất cứ nơi nào trên thế giới, miễn là vô được mạng internet thì có thể liên lạc với thân nhân bè bạn ở bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu vào bất cứ giờ giấc nào miễn là họ cũng vô mạng internet và sẵn sàng đáp ứng cuộc gọi hay tin nhắn của bạn. Bạn có một tấm ảnh, muốn gởi cho bao nhiêu người cũng được, không hạn chế về số lượng.

Các hạ sĩ vẫn có thể sử dụng các ứng dụng kỳ diệu này mặc dù nó nằm ngoài tầm hiểu biết và nhận thức của họ. Họ giống như con dơi có thể sử dụng được radar do cơ thể nó phát ra mà thực tế nó chẳng biết radar là cái quái gì.  

Tóm lại đại khái xã hội có ba hạng người. Tuyệt đại đa số là hạ sĩ họ chỉ tin vào giác quan mắt thấy tai nghe, xúc giác cảm nhận. Tri thức của họ không thể vượt qua cảnh giới chung quanh bản thân mình. Trung sĩ đã phát huy được phần nào tư duy trừu tượng, tri thức của họ đi xa hơn giác quan, họ có tư duy triết học. Họ là lực lượng chính nghiên cứu tìm tòi giúp cho xã hội phát triển, họ trở thành những nhà khoa học, những nhà văn hóa nghệ thuật sáng tạo, nâng cao đời sống xã hội. Thượng sĩ là những vĩ nhân như Đức Phật hay các vị Tổ Sư như Vô Trước, Thế Thân, Lục Tổ Huệ Năng…, họ thấy, tiếp xúc được với những thực tại sâu xa như Tâm, Phật tánh, Vô sinh pháp nhẫn. Đó là những thuật ngữ để chỉ một thực tại bất nhị bất biến không còn hạn chế trong không gian thời gian số lượng. Họ hướng dẫn đám đông mê muội thoát khỏi cuộc sống điên đảo mộng tưởng trầm luân.

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | Bình luận về bài viết này

Tuần ký Thứ bảy 12-11-2022

Tuần ký là ký sự ghi mỗi tuần một lần. Vậy tuần ký chủ yếu nói về việc gì ? Nói về những cuộc hẹn hò chiều thứ bảy với bạn gái. Tôi đã 70 tuổi, vậy mà hàng tuần còn hẹn hò gặp gỡ với bồ nhí chăng ? Đúng mà không đúng. Đúng là tôi có gặp gỡ bạn gái vong niên, nhưng cô ấy không phải bồ nhí. Danh xưng bồ nhí chỉ dùng cho những cô gái khoảng hăm mấy trở lại, còn cô bạn tôi đã ngoài 40 khó có thể gọi là bồ nhí, đó là độ tuổi trung niên đã hiểu biết rất nhiều về cuộc đời. Cho nên đây là mối quan hệ do hữu duyên, có chút gì đó hơi ngoại lệ, không thường xảy ra trong đời.

Điều ngoại lệ đó là gì ? Đó là tôi đã già, tóc bạc, răng rụng, lại không có nhiều tiền, mà cô ấy còn khá trẻ lại rất xinh đẹp. Vậy cái gì kết nối hai người lại với nhau ? Chỉ có thể giải thích là do hữu duyên thôi.  

Theo Phật giáo thì tâm sắp xếp mọi việc. Phật giáo nói : Nhất thiết duy tâm tạo. Như vậy tâm không phải chỉ là ý thức của một con người như thông thường mọi người hiểu. Mà tâm là nguồn gốc của Vũ trụ vạn vật. Vậy tâm tương ứng với Trời trong Nho giáo hay Thượng đế trong Thiên Chúa giáo.

Khi tôi rơi vào hoàn cảnh tuổi già phải sống cô đơn một mình, không có vợ và con cháu bên cạnh. Thế nên tâm sắp xếp cho tôi quen thân với một phụ nữ để cho cuộc sống đỡ buồn tẻ. Tâm còn chiếu cố cho tôi quen với một phụ nữ còn khá trẻ và xinh đẹp. Việc đó cũng hơi giống như Chúa đã tạo ra Eva để làm bạn với Adam.

Cô bạn gái vong niên và con gái

Thế nên theo thông lệ hàng tuần tôi có cuộc hẹn với cô bạn vào chiều Thứ bảy. Và vài ba tuần  tôi viết tuần ký một lần. Chiều thứ bảy hôm nay, sau khi ăn trưa xong lúc 12:47 tôi nhắn tin :

-Chiều nay 3 giờ anh xuống nhé em.

Nàng bấm like bằng dấu hiệu quả tim đỏ của Zalo chứng tỏ đã đọc và chấp nhận. Lúc 14:58 tôi đến quán cà phê kế bên tiệm làm tóc của nàng, thấy đã có xe máy của nàng nên nhắn tin :

-Anh tới rồi. Anh qua ngay hay gọi nước uống một tí qua ?

-Anh qua em đi. Em đang rảnh. Sợ tí có khách.

-OK anh qua liền.

Tôi nói với tiếp viên quán cho tôi gởi xe ở đây, một lát sẽ trở lại gọi nước sau. Và đi qua tiệm làm tóc. Chiều thứ bảy nhưng không có nhiều khách.

Hôm kia nàng bị trúng gió, nặng đầu, trên cổ vẫn còn những vết bầm do bắt gió. Hôm kia hai đứa con nàng cũng bị bệnh, phải đưa đi bệnh viện khám. Tôi hỏi thăm :

-Các con em đã khỏe chưa ?

-Con trai đỡ rồi hôm nay đã đi học lại. Con gái thì còn ho.

Hôm qua tôi có kể chuyện có hai vị khách từ Đà Lạt xuống Cần Thơ ghé nhà thắp nhang cho thầy Duy Lực và từ giã tôi để trở về Thụy Sĩ. Tôi cũng nói qua một chút về việc cha tôi lúc sinh tiền có đi thuyết pháp ở nhiều nước như Mỹ, Canada, Pháp, Úc, Đài Loan và Việt Nam. Sau khi thầy tịch đệ tử có thu thập những lời thầy thuyết giảng soạn thành bộ Duy Lực Ngữ Lục, bản tiếng Việt phát hành tại VN còn bản tiếng Hoa phát hành tại Đài Loan. Tôi cũng có gởi cho nàng xem hình bìa của hai bộ sách đó.

Hôm nay nàng nhắc lại và khen :  

-Cha anh giỏi thật. Anh cũng được thơm lây.

-Cám ơn em. Cha anh là ông thầy mà.

Nàng còn hỏi cha tên gì, pháp danh là gì. Tôi trả lời xong, nàng nói pháp danh trùng với tên của chồng nàng.    

Lúc chia tay nàng gởi cho tôi 2 bịch chè. Một là chè khoai cao, bịch kia là chè đậu trắng bột báng. Cả hai đều có nước cốt dừa. Nàng hỏi :

-Lúc nãy anh chưa uống nước phải không ? Vậy anh ghé quán uống nước rồi hãy về.

-OK anh có nói với họ là một lát sẽ trở lại uống nước, anh vẫn còn để xe ở đó mà.

Thế rồi tôi trở qua quán gọi một ly cà phê sữa đá, ngồi uống nước và đọc báo mạng khoảng nửa tiếng sau mới về nhà.

Chiều tối ăn cơm xong lúc 19:05 tôi nhắn tin :

-Chiều nay anh về nhà ăn cơm xong, hâm bịch chè khoai cao ăn tráng miệng còn bịch kia thì để sáng mai ăn. Chè ngon lắm em. Cảm ơn em nhiều lắm nha!  

-Dạ, anh ăn ngon là em vui rồi. Bây giờ em đi rước con gái em học Anh văn ở Nhà văn hóa thiếu nhi về nhà luôn.

-Em đi rước con rồi về nhà thuận lợi nha.

-Dạ phải chờ 30 phút nữa.

Và trong khi chờ đợi nàng nhắn tin kể chuyện về tình hình con học ở trường cho tới tận 20 giờ.

-Thôi em trễ rồi. Em đi rước con. Lo nói chuyện mà quên luôn.

Tôi cũng giục :

-Thôi em đi đón con đi. Con em chờ đó. Cám ơn em.

Những buổi chiều và tối Thứ bảy thường trôi qua êm đềm như vậy. Cô bạn vong niên này thực tế đã góp phần rất đáng kể giúp cho cuộc sống của tôi đỡ buồn tẻ hơn rất nhiều.  

Đăng tải tại Bài viết | 4 bình luận

THẦN THỨC LÀ GÌ ?

Trước hết chúng ta tìm hiểu kinh điển nói về thần thức như thế nào.

神識指意識,概述神識小無內。所以佛說:“一杯水裏有八千萬衆生。”神識大無外,所以佛說“大千世界”。神識是衆生的心和識。普遍認爲指八識(眼、耳、鼻、舌、身、意、末那、阿賴耶等識)。

Thần thức là chỉ về ý thức. Nói khái quát thần thức nhỏ thì không có gì nhỏ hơn. Vì vậy Phật nói “Trong ly nước có 80 triệu chúng sinh” thần thức lớn thì không có gì lớn hơn, vì vậy Phật nói “Đại thiên thế giới” Thần thức là tâm và thức của chúng sinh, phổ biến là chỉ 8 thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, não, mạt-na, a-lại-da).   

Đại thiên thế giới nói đủ là Tam thiên đại thiên thế giới tức là vũ trụ có 1000 lũy thừa 3 tức 1 tỷ thế giới. Ngày xưa một tỷ là nhiều vô lượng đến mức người ta không có danh từ để gọi nên mới tạm nói là Tam thiên đại thiên 三千大千 . Còn con số 80 triệu chúng sinh trong ly nước cũng chỉ là số ước chừng thôi.

Thần thức và linh hồn khác nhau thế nào ?

Theo pháp sư Tịnh Không thì khi mê gọi là linh hồn còn khi giác ngộ thì gọi là thần thức. Như vậy thì linh hồn và thần thức chỉ khác nhau về tên gọi chứ bản chất chỉ là một.

Đứng trên quan điểm vô phân biệt trí thì nói như vậy cũng không sai bởi vì tất cả chỉ là một.

Nhưng đứng trên quan điểm phân biệt của thức thì linh hồn và thần thức có sự khác nhau. Chúng ta cần nhớ rằng Tâm Trí là vô phân biệt còn Thức Mê là có phân biệt. Vậy thì sự phân biệt đó như thế nào ?

Khi chúng ta nói linh hồn thì luôn có hàm ý rằng đó là phần hồn của một chúng sinh. Một chúng sinh thì có bản ngã riêng biệt, có tập khí, có mang theo nghiệp. Và cái nghiệp đó quyết định lúc lâm chung sẽ đi theo con đường nào trong 6 đường, 4 loài, 3 cõi. Cái nghiệp đó cũng quyết định tương lai của chúng sinh đó như thế nào, giàu sang sung sướng, khỏe mạnh hay nghèo khổ đói rách bệnh tật.

Như vậy linh hồn của một chúng sinh thì có giới hạn, đó là một cá thể đơn nhất, nghiệp của chúng sinh đó cũng có giới hạn.

Còn khi nói thần thức 神識 thì nghĩa thế nào ? Thần là tinh thần, thức là a-lại-da thức là cái thức bao trùm nhất trong 8 thức. Thực tế là a-lại-da thức bao gồm cả 8 thức trong đó. Như đoạn trích đầu bài đã nói thần thức siêu việt lớn nhỏ. Về mặt nhỏ thì không có cái gì nhỏ hơn, về mặt lớn thì không có cái gì lớn hơn. Vậy thần thức là vô lượng vô biên không có số lượng.

Chính vì a-lại-da thức là vô lượng nên thần thức của một chúng sinh trong vô lượng kiếp cũng bằng với thần thức của vô lượng chúng sinh trong vô lượng kiếp.

Như vậy sự khác nhau rõ ràng giữa linh hồn và thần thức là :

-Linh hồn là phần tinh thần, thức (mạt-na thức) của một chúng sinh riêng biệt.

-Thần thức là tinh thần, thức (a-lại-da thức) của vô lượng chúng sinh trong tam giới. 

Thần thức chứa vô lượng thông tin về nghiệp của vô lượng chúng sinh, nhưng khi đi đầu thai thì mỗi mạt-na thức chuyển hóa thành một kiếp sống mới của một chúng sinh trong một cảnh giới. Vô lượng mạt-na thức  sẽ chuyển hóa thành vô lượng kiếp sống mới của vô lượng chúng sinh trong vô lượng cảnh giới. Do đó mới khái niệm về vũ trụ song song. Mỗi chúng sinh sống trong một của nhiều vũ trụ song song đó.  

Chính vì vậy nên kinh điển Phật giáo nói vô lượng chúng sinh cũng chỉ từ một tâm mà ra. Một tâm biến hóa ra vô lượng chúng sinh.

Đa số các vị sư thầy chỉ nói chung chung về lý thuyết Phật giáo như vậy thôi chứ đa số là không có chứng minh. Nhưng ngày nay khi khoa học đã phát triển tiệm cận với Phật giáo thì lý thuyết đó có thể chứng minh được và trong thực tế khoa học đã có chứng minh.

Khoa học phải chứng minh rằng vũ trụ vạn vật, không gian, thời gian, số lượng chỉ là khái niệm ảo tưởng chứ không phải hoàn toàn chân thật. Vậy khoa học chứng minh như thế nào ?

Chúng ta biết rằng vật chất cấu tạo bằng 18 loại hạt cơ bản. Con số 18 hình như có liên quan tới 18 giới (lục căn, lục trần, lục thức) và Phật giáo có hình dung ra 18 vị La hán tương ứng với 18 giới đó.

Trong 18 hạt cơ bản này thì khoa học chỉ mới tận mắt nhìn thấy 17 hạt, còn hạt thứ 18 (graviton=hạt hấp dẫn) thì các nhà khoa học chưa thấy tận mắt nên họ chưa đưa vào Bảng mô hình vật lý hạt chuẩn (Standard model of particle physics table). Tuy nhiên năm 2016 các nhà khoa học đã phát hiện ra sóng hấp dẫn (gravitational waves). Sóng và hạt là hai hình thái vốn có của hạt, hễ có sóng thì ắt có hạt. Sẽ có ngày người ta tận mắt phát hiện ra hạt giaviton.      

Standard model of particle physics table với 17 hạt cơ bản của vật chất

Thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement)

Thí nghiệm này vô hình trung sẽ chứng minh khái niệm về 8 thức mà chủ yếu là a-lại-da thức là hoàn toàn có cơ sở khoa học.

Theo thí nghiệm của Nicolas Gisin và đồng sự tại Đại học Geneva Thụy Sĩ thực hiện năm 2008, họ tạo ra hai photon tách rời cách nhau 18 km, họ tác động lên photon này thì tức thời photon kia bị tác động theo, không mất chút thời gian nào. Năm 2012 Zeilinger có làm lại thí nghiệm quantum entanglement với khoảng cách xa hơn là 89 miles = 143 km. 89 dặm hay 143 km là khoảng cách của 2 photon liên kết trong thí nghiệm của Anton Zeilinger năm 2012, một hạt nằm trên đảo Santa Cruz de La Palma, hạt kia nằm trên đảo Tenerife, cả hai đảo nằm trong quần đảo Canary thuộc Đại Tây Dương ngoài khơi bờ biển phía tây bắc Phi Châu.

Zeilinger đã gởi một hạt photon từ đảo Santa Cruz (hạt A) đến đảo Tenerife cách xa 89 miles (hạt B), nhưng do 2 hạt photon ở hai đảo có sự liên kết nội tại, khi ông xoay hạt A muốn biết hạt B phản ứng như thế nào, ông không cần phải chờ tín hiệu của hạt B truyền qua 89 km biển mà chỉ cần xem hạt C ở kế bên hạt A bởi vì hạt C là một bản sao giống hệt hạt B nên có thể coi như hạt C thay thế cho hạt B. Giống như người thân của bạn gởi 1000USD từ Mỹ về VN, bạn không cần phải chờ số tiền đó đi qua hàng vạn km biển và đất liền, người ta có thể ngay tức thời đưa số tiền 1000USD có sẵn ở tại ngân hàng cho bạn bởi vì hai số tiền đó giống hệt nhau.

Hiện tượng này sẽ rất có ý nghĩa với những khoảng cách xa xôi trong vũ trụ. Thí dụ nếu ứng dụng được phương thức thông tin này thì để nhận tín hiệu từ Sao Mộc thay vì phải chờ 35 phút để tín hiệu vượt qua mấy trăm triệu km không gian, có thể nắm được tín hiệu tức thời không mất thời gian do liên kết lượng tử bởi vì nó không phải vượt qua bất cứ khoảng cách không gian nào.  

Lúc sinh thời Einstein có biết hiện tượng này, nhưng ông rất bối rối không hiểu được, nên phát biểu rằng đó là tác động ma quái từ xa (Spooky action at a distance). Hiện tượng này còn biểu lộ những tính chất rất lạ lùng mà Einstein không thể nào chấp nhận nổi : đó là vật không có tự tính, cụ thể là hạt photon không có số spin sẵn, mà đó chỉ là số đo do con người gán cho nó lúc đo đạc. Photon không có định xứ (nonlocality) tức vị trí nhất định, định xứ cũng là do con người gán cho. Số lượng hai photon cũng không thực có, con người thấy là hai nhưng thực tế không phải là hai. Gần đây Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow vừa tạo ra những trạng thái lượng tử chứa tới 100.000 photon, và tất cả chúng đều bị vướng víu với nhau. Như vậy con số hai photon, 100.000 photon, hay vô cực photon là do con người tạo ra, cảm thấy. Số lượng là do ý thức của con người tạo ra. Mặt khác khái niệm về khoảng cách không gian (18 km trong thí nghiệm của Gisin, 143 km trong thí nghiệm của Zeilinger) hay thời gian (không mất thời gian hay mất bao lâu) đều là do con người tạo ra. Các nhà duy thức đã thấu hiểu tất cả những điều này nên họ mới tổng kết một câu xanh dờn trong Thành Duy Thức Luận : Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức. Họ biết tất cả những phân biệt về tánh tướng, về thiện ác đều chỉ là giả lập, là ảo chứ không phải thật (Liễu cảnh vi tánh tướng, Thiện, bất thiện câu phi 了境為性相,善不善俱非 hiểu rõ cảnh chỉ là tánh và tướng- thông tin- thiện và bất thiện đều không có thật).

Einstein đã cố chống lại thuyết lượng tử, năm 1935, ông cùng với Podolsky và Rosen đưa ra một giả thuyết để bác bỏ thuyết lượng tử mà sau này giới khoa học thường gọi là nghịch lý EPR (EPR paradox). Năm 1964, tức 11 năm sau khi Einstein qua đời, John Bell có sáng kiến lập ra bất đẳng thức mang tên ông, dựa theo các tính chất mà nhóm EPR cho là đúng, để kiểm chứng giả thuyết EPR. Tất cả các thí nghiệm đều cho thấy bất đẳng thức Bell bị vi phạm, điều đó chứng tỏ giả thuyết của nhóm Einstein là sai lầm.

Như vậy qua thí nghiệm liên kết lượng tử, khoa học đã chứng minh được 3 điều :

-Vật chất (hạt photon hay hạt electron…) là không có thật (non realism) chỉ là do tâm niệm tạo ra (thấy rõ qua thí nghiệm 2 khe hở)

-Không gian và thời gian đều không có thật do tính chất bất định xứ (non locality) của hạt. Hạt photon hay hạt electron ở dạng sóng thì ở khắp nơi không có vị trí nhất định.

-Số lượng không có thật (non quantity) tất cả các hạt đều là ảo vì một hạt photon cũng là 2 hạt, 100.000 hạt hay vô lượng hạt. Không có hạt nào là thật cả.

Như vậy thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement) đã chứng tỏ thần thức tức a-lại-da thức là vô sở trụ (không có không gian, không có thời gian, không có số lượng, chỉ là ảo cảnh không có thật, bản chất của nó chỉ là thông tin vô định hình (chưa có phân biệt).  

Thế nào là thông tin vô định hình ?

Thông tin ở dạng số nhị phân mà chúng ta hiện nay rất quen thuộc đều là thông tin vô định hình, chỉ là những con số vô nghĩa, chưa có phân biệt, chưa có nghĩa lý gì cả. Vậy khi nào thì thông tin đó mới được định hình, mới có nghĩa lý ? 

Thông tin đó chỉ được định hình khi chúng ta gán ghép cho mỗi con số một đặc điểm, một ý nghĩa chủ quan nào đó. Nhưng để cho mọi người đều thấy như nhau, thì người ta phải đưa ra một quy ước thống nhất. Chẳng hạn chữ @ được gán cho số 0, chữ A được gán cho số 1, chữ B được gán cho số 2, dấu ! được gán cho số 33, dấu & được gán cho số 38 v.v…đó là bảng ký tự ASCII.   

Sau khi được gán ghép thì cả dãy số nhị phân sẽ biến thành văn bản có ý nghĩa. Thí dụ :

010011100011111101101110011001110010000001101100001111110010000001101101001111110111010000100000011000110011111100100000011001110011111101101001001000000111100001101001011011100110100000100000001111110011111101110000

Trên đây là một dãy số nhị phân vô định hình, vô nghĩa. Nhưng khi gán ghép các ký tự của bảng mã ASCII vào thì nó trở nên có ý nghĩa. Ý nghĩa đó là :

Nàng là một cô gái xinh đẹp

Nhưng để chuyển đổi hàng hàng lớp lớp những con số nhị phân của một bài báo trong đó có chữ viết, có hình ảnh, âm thanh, video…thì phải cần một bộ vi xử lý (processor) cực nhanh, một giây có thể thay thế hàng tỷ đặc điểm cho hàng tỷ con số thì màn hình và loa mới hiện ra những văn bản, hình ảnh, âm thanh, video mà chúng ta thấy.

Chính vì vậy chúng ta mới cần những con chip cực mạnh, mỗi milimét vuông chứa hàng tỷ transitors để xử lý thông tin. Điện thoại di động là một loại thiết bị rất nhỏ gọn có thể nằm trọn trong lòng bàn tay nhưng có khả năng rất lớn. Chính vì không gian của chiếc điện thoại di động rất giới hạn mà cần khả năng xử lý rất lớn nên đòi hỏi con chip phải rất nhỏ để không tốn chỗ mà phải rất mạnh. Chip mạnh nhất hiện nay đã thương mại hóa là Snapdragon 8+Gen1 của hãng Qualcomm Mỹ thiết kế, với tiến trình 4nm do hãng TSMC Đài Loan sản xuất.

Hãng SMIC của TQ thì lạc hậu hơn hãng TSMC chỉ mới sản xuất được con chip với tiến trình 7nm với tên tạm gọi là SMIC’s N+2 chip. Chỉ số nm càng nhỏ thì càng khó sản xuất nhưng càng hiệu quả, càng nhanh và ít tốn pin.

Chip 7nm của SMIC TQ

Kết luận

Chúng ta đọc thấy trong kinh điển nói rằng khi một người mới chết thì thần thức chưa đầu thai tái sinh ngay trong một thân thể khác, trong một cảnh giới khác mà còn ở giai đoạn thân trung ấm. Bộ máy cơ thể đã ngừng hoạt động, tim ngừng đập, não ngừng xử lý thông tin, nhưng đó chỉ mới có sắc uẩn ngừng hoạt động, các uẩn còn lại là thọ, tưởng, hành, thức, vẫn tiếp tục hoạt động và vẫn còn dính dáng với thân ngũ ấm nên gọi là thân trung ấm.

Những người có tập khí nghiệp thiện ác rõ ràng phân minh có thể sớm đầu thai qua thân ngũ ấm mới, cảnh giới mới. Còn người nghiệp thiện ác gần bằng nhau nửa thiện nửa ác thì phân vân lâu hơn, lâu nhất là 49 ngày mới đi qua cảnh giới mới.

Thế nhân gọi là linh hồn đi đầu thai, nhưng Phật pháp gọi là thần thức, nó cũng tức là a-lại-da thức chứa đủ mọi chủng tử của vô lượng chúng sinh nhưng đều là tâm (vô phân biệt) hay thức (có phân biệt). Tâm là thông tin vô định hình, còn thức là thông tin đã định hình tức là đã gán ghép các đặc điểm, đặc tính vào tâm. Sự gán ghép này là do tập khí tức thói quen quyết định.

Thí nghiệm hai khe hở đã chứng minh rằng chính tâm niệm của người quan sát đã làm sụp đổ sóng tiềm năng và biến sóng thành hạt cơ bản. Điều đó cũng có nghĩa là tâm thức đã tạo ra vật chất. Vật chất như hạt photon, hạt electron hay các hạt cơ bản khác, bản chất cũng chỉ là thông tin. Thông tin đó chứa trong a-lại-da thức và khi một chúng sinh lâm chung còn trong tình trạng thân trung ấm, khi sắc thân đã ngừng hoạt động nhưng thức chưa chuyển sang một kiếp sống mới thì gọi là thần thức.

Dân gian gọi nó là linh hồn hàm ý rằng nó có bản ngã, cái ta riêng biệt và cái ta đó mãi trôi lăn sinh tử trong lục đạo luân hồi. Người chấp cho rằng linh hồn có thật, linh hồn đi đầu thai thì sẽ không bao giờ giác ngộ vì chấp ngã và chấp pháp. Hễ chấp là tà kiến, người chấp đi theo tà đạo.  

Còn Kinh điển gọi nó là thần thức, nó vô ngã vì bao gồm tất cả chúng sinh, thông tin chứa trong đó vô cùng lớn vì là thông tin của vô lượng chúng sinh trong vô lượng kiếp nên gọi là a-lại-da thức hay tàng thức, nhưng thông tin hay chủng tử quyết định của thần thức hay thân trung ấm đương cơ lại do mạt-na thức tức là thức chấp ngã quyết định. Mạt-na thức trong thần thức mới thực sự tương ứng với linh hồn theo quan niệm dân gian. Mà hễ chấp ngã thì tất nhiên là phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi. Phá ngã chấp và pháp chấp mới đúng là tu hành chân chính theo Phật pháp.   

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | 2 bình luận

PHÁP THÂN PHI TƯỚNG

Trong Phật pháp có thuyết Tam Thân 三身 tức là 3 hình thái của Như Lai Phật :

Pháp thân 法身,  (dharmakāya) tức là bản thể của Phật cũng như của tất cả chúng sinh, bản thể này vốn đồng, chúng sinh cũng là Phật. Pháp thân thì vô hình, vô tướng, vô thể. Nó giống như hư không nhưng không phải hư không vì nó bao hàm vô lượng thông tin vô định hình nghĩa là chưa phân cực thành nhị nguyên, chưa thành những cặp phạm trù đối lập nhau như âm dương, sáng tối, tốt xấu, thiện ác, Phật chúng sinh v.v… 

Báo thân  報身,  (saṃbhogakāya) là cái thân do nghiệp tạo thành. Các vị Phật, Bồ Tát do công phu tu tập thiện nghiệp nên có thân thể tốt đẹp với 32 tướng tốt, có trí tuệ, có sự nghiệp sáng chói, chẳng hạn Đức Phật Thích Ca là người sáng lập Đạo Phật, ngài có thể lực phi phàm, trí tuệ siêu việt. Còn chúng sinh thì thường điên đảo mộng tưởng, mê muội; người khéo tu thì có phước báo, người vụng tu tạo nghiệp không tốt thì gặp nghịch cảnh, trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi.

Ứng thân  應身, (nirmāṇakāya), cũng được gọi là Hoá thân 化身. Phật, Bồ Tát hay các vị giác ngộ triệt để có thần thông có thể biến hóa theo ý muốn, sinh tử tự do, có thể đến cảnh giới nào cũng được. Chẳng hạn ngài Động Sơn Lương Giới 洞山良价(807-869 CN) hay Ngộ An thiền sư 遇安禅师 (924-995) muốn sống hay muốn chết lúc nào cũng được. Còn chúng sinh mê muội thì không tự làm chủ được nên chưa có khả năng hóa thân.

Sau khi hiểu sơ về Tam Thân chúng ta mới bàn về Pháp thân phi tướng là thế nào. Pháp thân thì vô hình vô thể nên không có tướng, nhưng đó mới là căn bản của tất cả Phật và chúng sinh, của toàn thể pháp giới vô biên. Kinh Kim Cang có đề cập tới vấn đề này trong bài kệ :

Nhược dĩ sắc kiến ngã, 若以色見我 Nếu dựa vào hình tướng vật chất để thấy ta

Dĩ âm thanh cầu ngã,    以音聲求我 Lấy âm thanh để tìm cầu ta

Thị nhân hành tà đạo,   是人行邪道 Người đó là đang hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai.  不能見如來 Không thể thấy được Như Lai        

Nhược dĩ sắc kiến ngã là sao ? Đó là những người ham thích hình tướng với 32 tướng tốt của Phật, vẽ hình Phật treo khắp nơi, tạc tượng Phật khắp các hang núi, xây dựng thật nhiều chùa chiền với hàng lô hàng lốc tượng Phật, đưa hình Phật, Bồ Tát lên khắp các trang mạng, thường xuyên đi chùa lạy tượng Phật…

Dĩ âm thanh cầu ngã là sao ? Đó là những người ưa thích đọc tụng kinh Phật, một ngày mấy thời tụng kinh, mở miệng ra là Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, nghe không biết bao nhiêu băng giảng, video clip thuyết pháp. Có người còn chép bao nhiêu bài thuyết pháp trong điện thoại để nghe tới nghe lui cầu giác ngộ.

Vậy những người đó có thấy được Như Lai tức là giác ngộ giải thoát không ? Câu trả lời là không. Tuyệt đại đa số là không thể giác ngộ. Chỉ có một số cực kỳ ít sau một thời gian dài lạy tượng Phật và tụng kinh, tu theo giáo môn rồi sau đó họ chuyển sang thiền định, chẳng hạn ngài Vĩnh Gia Huyền Giác cuối cùng phải bỏ giáo môn, bỏ tướng mới giác ngộ mới hiển tánh được.

Tại sao tuyệt đại đa số không thể giác ngộ ? Bởi vì như đoạn kinh trên đã nói, đó là  hành tà đạo tức là đi sai đường nên không thể đến đích được.

Tà đạo là gì ? đó là con đường cong, con đường xiên lệch. Hành tà đạo là đi con đường lệch lạc nên chắc chắn là không thể đến đích. Chẳng hạn một người mê thích hình tướng Phật, ngày nào cũng vào chùa lạy tượng Phật. Hoặc một người khác mê thích tụng kinh, ngày nào cũng tụng Bát Nhã Tâm Kinh suốt đời thì có thể giác ngộ không ? Tụng kinh suốt đời cũng không thể giác ngộ.      

Thế nào là tà đạo ? Tà đạo là biên kiến, cái thấy lệch một bên. Chẳng hạn một người suy nghĩ thiện làm điều thiện, đó cũng là lệch một bên, rồi thiện sẽ biến thành ác. Một người khác suy nghĩ ác, làm điều ác, đó cũng là lệch một bên. Làm thiện hay làm ác đều là do biên kiến (cái thấy lệch một bên) và đều là hành tà đạo nên không thể giác ngộ. Ắt có người hỏi : Vậy không nên làm thiện sao ? Không hẳn thế, làm thiện hay làm ác, đó là việc tùy duyên. Chẳng hạn đi đường gặp người đói thì nên bố thí chút thực phẩm hoặc tiền. Trong trường hợp thấy một kẻ đang xả súng bắn giết bừa bãi, nếu có thể làm ác bắn hạ kẻ đó để cứu nhiều người khác thì cũng nên làm.  Còn biến việc làm thiện hay làm ác thành một chủ trương và làm hoài làm mãi thì cũng sẽ không đi tới đâu, không thể đi tới giác ngộ giải thoát. Ví dụ sau một trận thiên tai có nhiều người đói khổ, mất nhà cửa, thì chúng ta nên cứu trợ giúp đỡ nạn nhân qua cơn bĩ cực. Nhưng nếu chúng ta thích làm từ thiện tự nguyện đem cả cuộc đời mình đi cứu giúp những người khổ sở thì cũng sẽ không đi tới đâu, người khổ sẽ còn hoài, hết thiên tai này tới nhân họa nọ, không thể chấm dứt được. Và việc làm của mình trở thành tà đạo vì xuất phát từ biên kiến, rốt cuộc mình cũng không thể giác ngộ.       

Chính vì để tránh biên kiến nên Long Thọ Bồ Tát đã soạn ra Trung Quán Luận, khuyên hành giả nên theo Trung Đạo thay vì rơi vào biên kiến.

Trung Quán Luận của Long Thọ Nàgàrjuna Bồ Tát là một bộ luận rất dài gồm 27 phẩm (chương) với tất cả 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ, tổng cộng 1784 câu. Bộ kinh này đã được Cưu Ma La Thập 鳩摩羅什 Kumārajīva (344-413CN) dịch ra Hán văn. Lý luận rất trừu tượng khó nắm bắt. Vì vậy các vị đại luận sư Ấn Độ sau Long Thọ giải thích Trung Quán Luận với rất nhiều bất đồng làm rối trí hàng hậu học. Chúng ta chỉ nên bàn về yếu chỉ của bộ luận.

Yếu chỉ là muốn nói chỉ nêu phần cốt yếu mà thôi chứ không trình bày hết toàn bộ Trung Quán Luận bởi vì bộ luận quá dài dễ làm phân tâm rối trí người đọc.

Ngay cả 446 bài kệ nguyên tác của Long Thọ cũng không cần thiết phải đọc hết, điều quan trọng là nắm được yếu chỉ. Sự việc cũng giống như người học Phật không cần phải đọc hết Đại Tạng Kinh, điều cần thiết là nắm được yếu chỉ của Phật pháp. Thay vì đọc hết Đại Tạng Kinh, người học Phật chỉ cần hiểu cho thật rõ ràng 4 chữ thôi : Ngũ Uẩn Giai Không 五蘊皆空 thì tốt hơn nhiều. Do đó đọc Trung Quán Luận cần nắm được yếu chỉ của tác phẩm hơn là đọc hết 446 bài kệ.

Thật ra, chỉ một bài kệ thứ nhất thôi cũng đủ bao quát toàn bộ yếu chỉ của Trung Quán Luận. Tôi nhận thấy cần phải kết hợp với khoa học hiện đại để hiểu thật rõ ý nghĩa của các bài kệ.

Phẩm thứ nhất : Phá Nhân Duyên

Bài này phá cái ý chấp thật về vũ trụ, về nhân duyên, về vật chất, về các pháp

不生亦不滅 Bất sinh diệc bất diệt           Không sinh cũng không diệt

不常亦不斷 Bất thường diệc bất đoạn   Không tồn tại mãi cũng không tiêu mất

不一亦不異 Bất nhất diệc bất dị             Không đồng nhất cũng không khác nhau

不來亦不出 Bất lai diệc bất xuất              Không đến cũng không đi

諸法不自生 Chư pháp bất tự sinh           Các pháp không tự sinh ra

亦不從他生 Diệc bất tòng tha sinh           Cũng không phải do vật khác sinh ra

不共不無因 Bất cộng bất vô nhân           Không phải cộng sinh cũng không phải tự nhiên mà có

是故知無生 Thị cố tri vô sinh                  Vì vậy biết là vô sinh

Bài kệ này mô tả khái quát vũ trụ vạn vật điển hình là cõi thế gian. Vũ trụ không có sự sinh thành cũng không có sự tiêu vong. Thuyết Big Bang của khoa học mô tả sự sinh thành của vũ trụ, nhưng đó chỉ là mô tả, không phải thực tế, mô tả đó chỉ là vọng tưởng của bộ não con người không phải là tất cả sự thật. Bài kệ nói về thắng nghĩa của vũ trụ vạn vật, nó không tự sinh ra cũng không mất đi, cũng không phải do vật khác sinh ra, cũng không phải do nhân duyên hòa hợp giữa hai vật mà thành (cộng sinh), cũng không phải tự nhiên mà có (vô nhân). Vì vậy nên biết là vô sinh tức chỉ là ảo tưởng không có thật.

Vô sinh là một yếu chỉ quan trọng trong Phật pháp. Ý tưởng vô sinh được đúc kết trong thuật ngữ vô sinh pháp nhẫn 無生法忍.

Kinh Đại Bát Nhã giải thích vô sinh pháp nhẫn như sau :

《大般若經》 卷四四九〈轉不轉品〉雲(大正7•264b):‘如是不退轉菩薩摩訶薩,以自相空,觀一切法,已入菩薩正性離生,乃至不見妙法可得。不可得故,無所造作。 無所造作故,畢竟不生。畢竟不生故,名無生法忍, 由得如是無生法忍故,名不退轉菩薩摩訶薩。’此謂菩薩觀諸法空,入見道初地,始見一切法畢竟不生之理,名無生法忍

(Đại Bát Nhã Kinh, quyển 449, “Chuyển bất chuyển phẩm” vân (Đại Chánh 7.264b) : “Như thị bất thoái chuyển Bồ Tát Ma Ha Tát, dĩ tự tướng không, quán nhất thiết pháp, dĩ nhập Bồ Tát chánh tánh ly sanh, nãi chí bất kiến diệu pháp khả đắc. Bất khả đắc cố, vô sở tạo tác. Vô sở tạo tác cố, tất cánh bất sanh. Tất cánh bất sanh cố, danh vô sanh pháp nhẫn. Do đắc như thị vô sanh pháp nhẫn cố, danh bất thoái chuyển Bồ Tát Ma Ha Tát. Thử vị Bồ Tát quán chư pháp không, nhập kiến đạo sơ địa, thủy kiến nhất thiết pháp tất cánh bất sanh chi lý, danh vô sanh pháp nhẫn).

Dịch nghĩa : Đại Bát Nhã Kinh, quyển 449, “phẩm Chuyển Bất Chuyển” nói (trích Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, trang 7.264b) : “Bồ Tát Ma Ha Tát (Ma Ha Tát Mahasattva phiên âm đầy đủ là Ma Ha Tát Đỏa 摩诃萨埵 là đại sĩ, người có nguyện lực rộng lớn) bất thoái chuyển như thế, lấy tự tướng “không” để xem xét tất cả các pháp, đã vào được cảnh giới không còn sanh diệt của Bồ Tát, đến mức không còn thấy có diệu pháp để đắc. Vì không thể có đắc nên không có cái để tạo tác. Vì không có cái tạo tác, nên tất yếu là bất sanh. Vì tất yếu là bất sanh nên gọi là vô sanh pháp nhẫn (trạng thái bản lai không có sanh diệt). Người chứng được vô sanh pháp nhẫn như thế gọi là Đại Bồ Tát bất thoái chuyển (không lui sụt). Đó gọi là Bồ Tát thấy các pháp là không, nên vào được sơ địa của con đường giác ngộ, bắt đầu thấy cái lý tất yếu bất sanh của tất cả các pháp, gọi là vô sanh pháp nhẫn.

Tại sao biết thế giới không có thật ? Vì vật không có tự tính, một hạt proton hay hạt neutron hoặc hạt electron đều không có thuộc tính (properties) gì cả, những thuộc tính như số đo spin, vị trí, khối lượng, điện tích của hạt, đều là do người khảo sát đo đạc gán ghép cho hạt, chứ nó không có sẵn, không chắc chắn có (uncertainty). Nhận thức này do nhà khoa học Niels Bohr đưa ra và một nhà khoa học khác là Alain Aspect kiểm chứng năm 1982 tại Paris trong thí nghiệm về liên kết lượng tử (quantum entanglement). Thí nghiệm đó rút ra hai kết luận quan trọng :

Một là vật không hiện thực (non realism) tức vật chỉ là tưởng tượng không có thật. Hai là vật không có vị trí nhất định (non locality=vô sở trụ). Một vật ổn định và có vị trí và các thuộc tính xác định trong không gian và thời gian, chỉ là tưởng tượng của bộ não.

Chính vì những hạt cơ bản (elementary particles) chỉ là hạt ảo không có thật, quark, proton, neutron và electron đều là hạt ảo nên nguyên tử do chúng cấu tạo cũng là ảo, nguyên tử không phải là một vật có thật. Niels Bohr nói : “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập (tách khỏi người quan sát) là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật). Một nhà khoa học khác là Werner Heisenberg nói : “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).

Vạn vật trong vũ trụ đều do nguyên tử cấu tạo mà nguyên tử chỉ là vật ảo nên vạn vật cũng chỉ là ảo. Vũ trụ vạn vật là do tưởng tượng có điều kiện. Điều kiện đó Phật pháp gọi là nhân duyên hay duyên khởi. Bởi vì các hạt cơ bản vốn là ảo, nguyên tử không phải là vật thật nên Long Thọ mới phá sự chấp thật về nhân duyên.

Bởi vì vạn vật trong vũ trụ, trong thế gian chỉ là ảo hóa nên kinh điển nói là vô sinh, vạn vật chỉ là tưởng tượng. Mô tả Big Bang của khoa học về sự thành lập vũ trụ cũng chỉ là tưởng tượng của bộ não. Đã là tưởng tượng thì sự sinh, diệt, thường hay đoạn của vũ trụ chỉ là hý luận, không có thực chất. Đó cũng là yếu chỉ của Trung Quán Luận. Tuy nhiên Long Thọ cũng không phủ nhận thế giới, đó chính là ý nghĩa cốt lõi của Trung Quán, phá chấp thật chứ không phải phủ nhận, có nghĩa là nên hiểu rằng cuộc sống của con người diễn ra trong thế giới ảo. Vũ trụ là ảo hóa, vũ trụ là số (digital universe).

Vũ trụ chỉ là tưởng tượng, là ý niệm chứ không có thực chất, các cặp phạm trù mâu thuẫn như Có-Không, Tốt-Xấu, Thiện-Ác…chỉ là khái niệm tương đối không có nghĩa thật. Vì vậy hành giả phải theo trung đạo chứ không theo biên kiến, bởi vì biên kiến là tà đạo. Trung đạo cũng không phải là con đường ở ngay chính giữa, mà ý nghĩa đích thực của Trung đạo là Vô sở trụ tức không có chỗ trụ (non locality).

Vô sở trụ là thế nào ?

Trong thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement) tiến hành năm 2008 do nhà khoa học Nicolas Gisin của đại học Geneva Thụy Sĩ thực hiện, cung cấp cho chúng ta một khái niệm rõ rang về vô sở trụ.

Nicolas Gisin

Ông dùng một cái máy có khả năng cho một hạt photon xuất hiện đồng thời ở hai nơi cách xa nhau 18km. Chúng ta tạm gọi là vị trí A và vị trí B. Khoảng cách A-B là 18km. Khi tác động vào A, thí dụ xoay A theo chiều kim đồng hồ thì lập tức B xoay ngược lại mà không mất chút thời gian nào. Khoảng cách 18km là khá lớn, dù tín hiệu truyền đi nhanh bằng vận tốc ánh sáng thì người ta vẫn nhận biết và đo đạc được vì kỹ thuật hiện đại đã đạt tới độ tinh vi. Nhưng thực tế là không có sự truyền tín hiệu. Người ta rút ra được những kết luận vô cùng cơ bản và đáng kinh ngạc.

1/Vật (hạt photon) là không có thật (non realism) bởi vì người ta có thể tạo ra một hoặc rất nhiều hạt khác xuất hiện đồng thời tại nhiều vị trí khác nhau.

2/Vị trí của hạt là vô sở trụ (non locality) bởi vì hạt có thể đồng thời xuất hiện tại hai hoặc vô số vị trí khác nhau. Do đó khoảng cách 18km cũng chỉ là ảo tưởng chứ không phải có thật. Chính vì khoảng cách không gian không có thật nên sự di chuyển cũng không có thật, không có sự truyền tín hiệu và tác động không mất thời gian. Nếu người ta thực hiện được vô sở trụ thì có thể trong tích tắc từ Địa Cầu đi tới Hỏa Tinh chứ không phải mất 7 tháng đi phi thuyền không gian như hiện nay.

3/Số lượng của vật (hạt photon) là không có thật (non quantity) vì người ta có thể cho hạt xuất hiện đồng thời ở rất nhiều vị trí khác nhau, cũng có nghĩa là một hạt tức là nhiều hạt. Năm 2012 Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow đã tạo ra những trạng thái lượng tử chứa tới 100.000 photon, và tất cả chúng đều bị vướng víu với nhau.

Maria Chekhova của đại học Moscow

100.000 photon ở trạng thái vướng víu (entangled) nghĩa là gì ? Nghĩa là một photon xuất hiện đồng thời ở 100.000 vị trí khác nhau trong không gian. Số lượng vị trí xuất hiện có giới hạn không ? Câu trả lời là không. Bằng chứng ở đâu ? Bằng chứng là thuyết Big Bang. Theo thuyết này, sau vụ nổ, thời gian và không gian đầu tiên xuất hiện như sau : thời gian bằng 10-43 (mười lũy thừa trừ 43) giây, vũ trụ chỉ là một hạt lượng tử có kích thước bằng 10-33(mười lũy thừa trừ 33) cm. Còn trước đó là bức tường Planck, không có không gian, không có thời gian, không có số lượng vật chất gì cả. Người ta tưởng tượng tại bức tường, thời gian là 10-44 (mười lũy thừa trừ 44) giây, đó chỉ là suy luận thôi, thực tế là không có gì cả, vũ trụ chưa bắt đầu hình thành. Sau vụ nổ, vũ trụ mới bắt đầu xuất hiện, bắt đầu có không gian, thời gian và số lượng vật chất, số lượng bắt đầu với chỉ một hạt lượng tử, sau đó xuất hiện khắp vũ trụ với vô lượng vô biên vị trí khác nhau, hình thành nên thiên hà, ngôi sao, mặt trời, hành tinh, trái đất, mặt trăng, vạn vật, con người.

Kết luận                

Pháp thân phi tướng nghĩa là pháp thân của Phật và của chúng sinh vốn là không có hình tướng nhất định, nó còn có tên gọi khác là Tâm. Toàn thể Tam giới cũng chỉ là tâm niệm, Phật, chúng sinh, vũ trụ vạn vật đều là tâm niệm. Vật chất, không gian, thời gian, số lượng, mặt trời, trái đất, mặt trăng, con người, cũng đều là tâm niệm không có thực thể. Hành giả tu tập theo Phật pháp phải ngộ được tánh không không có thực thể này mới có thể giải thoát khỏi tập khí muôn đời vạn kiếp chấp ngã và chấp pháp từ đó mới có thể đạt được tự do tự tại mà không cần tới một chính quyền hay một thể chế chính trị nào ban phát, thậm chí còn đạt được sinh tử tự do như các vị thiền sư Động Sơn Lương Giới hay Ngộ An của thời xưa. Còn nếu cứ chấp vào âm thanh, hình tướng thì không thể giác ngộ.

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | 1 bình luận

TÁNH KHÔNG LÀ GÌ ?

Tâm là tánh không, thông tin dạng sóng hay con số vô định

Những người có nghiên cứu tìm hiểu về Phật giáo ắt biết qua thuật ngữ tánh không. Tánh không được đề cập tập trung trong Bát nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh (般 若 波 羅 蜜 多 心 經 Prajnaparamitahridaya Sutra)

觀自在菩薩,行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空,度一切苦厄

QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT, HÀNH THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT THIẾT KHỒ ÁCH

Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu phép quán Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức dùng trí bát nhã soi thấu bản thể của thế giới, thì thấy Ngũ Uẩn đều là không, nên giải thoát được tất cả mọi khổ nạn.

Thấy 5 uẩn (5 tập hợp : sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều là không nên giải thoát được tất cả mọi khổ nạn.

Chỉ cần thấy, nhận ra thôi chứ không cần làm gì cả thì đã giải thoát được tất cả mọi khổ nạn. Tại sao thần kỳ thế ? Bởi vì nhận ra rằng tất cả mọi khổ nạn đều là không, không có thật, không có thực thể, chỉ là tâm tưởng tượng ra thôi thì làm gì có khổ nạn. 

Thế nhưng để thấu hiểu tánh không nghĩa là gì thì cũng không phải đơn giản. Tại sao không đơn giản ? Thân ngũ uẩn của ta không có thật sao ? nhà cửa xe cộ, quần áo, đồ dùng của ta không có thật sao ? sông núi đất đai của tổ quốc ta không có thật sao, địa cầu, mặt trời, mặt trăng, vũ trụ không có thật sao ? Trả lời những câu hỏi này không hề dễ dàng.

Do đó có người cho rằng tánh không là rỗng rang, trống rỗng, không có gì cả. Câu trả lời này hình như cũng không thuyết phục. Bởi vì nếu tánh không là trống rỗng không có gì cả thì tại sao chúng ta có thân ngũ uẩn, rồi có nhà cửa xe cộ và bao nhiêu thứ vật chất khác ? Rồi không gian, thời gian là cái gì, chúng ta có nhiều tiền hay ít tiền ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của mình.

Tất cả những câu hỏi này khiến chúng ta phải đặt lại câu hỏi tánh không là gì ?     

Trong bài viết này tôi sẽ trả lời câu hỏi này theo nhận thức của mình sau 50 năm nghiên cứu và thực hành Phật pháp.   

Theo tôi thấy, cái không mà Bát nhã tâm kinh nêu ra không phải là trống rỗng không có gì cả (hư không) mà chỉ là không có thực thể, không tuyệt đối có thật.

Thế nào là không có thực thể, có thể cho ví dụ được không ? Được, ví dụ con số là không có thực thể, có con số nhưng con số không có thực thể. Trừu tượng quá, có thể cho thêm ví dụ cho rõ nghĩa hơn không ?    

Ví dụ GDP của Mỹ, quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, năm 2021 là 20 518 ngàn tỷ. Con số 20 518 ngàn tỷ là không có thực thể. Con số đó không có ý nghĩa gì cả nếu không có đơn vị tính là USD gắn vào. Và người ta phải biết 1 USD có thể mua được cái gì. Chẳng hạn giá xăng ngày 11-09-2022 tại Los Angeles, California là 4.57 dollars/gallon (1 galon = 3,79 lít) suy ra 1 USD (23700 vnđ) mua được 0,83 lít xăng, vậy 1 lít xăng tại Los Angeles giá 28550 vnđ (giá xăng Ron 95 cùng ngày tại VN là 24230 đ).   

Vậy một con số trơn không có đặc trưng, tức không gắn với đơn vị tính thì không có thực thể. Tánh không chính là những con số trơn như vậy. Có khái niệm về con số nhưng những con số trơn không có nghĩa lý gì cả.

Trong thời đại kỹ thuật số thì tất cả mọi thứ ở trên đời đều có thể biến thành con số (digital), kể cả vật chất và tinh thần; hành vi biến mọi vật thành con số gọi là số hóa (digitizing). Các con số được gán ghép rất nhiều đặc điểm vô cùng phong phú để trở thành thông tin. Hệ thống số đếm thuận lợi cho việc số hóa là hệ thống nhị phân (binary system) bởi vì nó chỉ cần 2 cơ số 0 và 1 để diễn tả tất cả mọi con số. Và từng con số 0 và 1 riêng lẻ gọi là bit thông tin. Người ta dùng từ 8 tới 10 bit để biểu diễn một ký tự (chữ cái hay ký hiệu và những đặc trưng đặc điểm khác của vạn vật) tập hợp đó gọi là Byte. Bội số của Byte là Kilobyte  viết tắt KB (1 KB= 1024 bytes) Một tấm ảnh của một nhân vật nào đó thí dụ ca sĩ Sylvie Vartan :

Tấm ảnh này của Sylvie Vartan cần 94 KB

Bội số của KB là Megabyte viết tắt là MB (1MB = 1024 KB). Các file video cần đến nhiều MB.

Ví dụ file video sau đây cần tới 59.7 MB

Từ thông tin về cái ví da có thể khôi phục cái ví thật 

Bội số của MB là Gigabyte viết tắt là GB (1GB = 1024 MB). Bội số của GB là Terabyte viết tắt là TB. (1TB = 1000GB)

Ổ cứng ROM trong điện thoại thông minh của chúng ta hiện nay có sức chứa thông tin ít nhất là 32GB, trung bình là 64GB, nhiều là từ 128 GB trở lên.

Các bạn có thể thắc mắc Tánh Không thì có liên quan gì đến kỹ thuật số ? Có liên quan rất nhiều đấy. Bởi vì tánh không có bản chất là thông tin. Thông tin thì không có thực thể nhưng thông tin được biểu diễn bằng vô số con số. Và thông tin có thể tạo ra vũ trụ vạn vật và con người chúng ta.

Kinh điển Phật giáo đều nói : Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức 三界唯心 萬法唯識 Ba cõi Dục giới, Sắc giới Vô sắc giới đều là tâm, tất cả các pháp đều là thức.

Tâm chính là tánh không, là thông tin, là sóng, là những con số vô định, chưa được gán ghép đặc trưng, đặc điểm, đơn vị tính, nên tâm là vô phân biệt, là bất nhị. Còn thức cũng là thông tin, cũng là những con số nhưng đã được gán ghép đặc trưng đặc điểm nên đã có phân biệt. Tâm thức phân biệt thành bát thức : 5 căn, tiền ngũ thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và căn thứ 6 (não bộ) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phát sinh ra lục thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác thân thể, ý thức). Cộng chung lục căn, lục trần, lục thức thành 18 giới được hình tượng hóa thành 18 vị La Hán. Ngoài 6 thức đã nói còn 2 thức tổng hợp là thức thứ bảy (mạt-na thức) và thức thứ tám (a-lại-da thức). Mạt-na thức là tổng hợp thông tin của 18 giới của một chúng sinh trong vô lượng kiếp. A-lại-da thức là tổng hợp thông tin của tất cả mạt-na thức. Thức chấp ngã của một người là mạt-na thức. Thức tổng hợp của tất cả chúng sinh là A-lại-da thức.

Ở trong pháp giới vô lượng (không có số lượng, không có nhiều ít) thì Mạt-na thức của vô lượng kiếp cũng là A-lại-da thức, tất cả chúng sinh cũng chỉ là một tâm, tất cả các pháp cũng chỉ là một pháp, Phật giáo gọi là bất nhị. Để dễ hiểu hơn tôi xin cho ví dụ : Một năm có 365 ngày. Một năm chỉ có một ngày Tết dương lịch là ngày đầu năm thôi, còn lại là ngày thường. Câu hỏi là ngày tết nhiều hay ngày thường nhiều ? Thông thường thì chúng ta cho rằng ngày thường nhiều, ngày tết ít. Nhưng trong vô lượng thời  

gian thì ngày tết cũng  nhiều như ngày thường. Chứng minh bằng toán học :

Số ngày tết = vô cực

Số ngày thường = vô cực

Vậy số ngày tết bằng số ngày thường

Tương tự như vậy Mạt-na thức của vô lượng kiếp cũng chính là A-lại-da thức. Một chúng sinh trong vô lượng kiếp cũng chính là vô số chúng sinh trong vô lượng kiếp, tất cả chỉ là một tâm mà thôi.

Căn cứ vào nguyên lý bất nhị cũng như nguyên lý nhất thiết pháp vô tự tính, nhất thiết duy tâm tạo mà Đức Phật đã trình bày trong Vi Diệu pháp và các vị Tổ Sư đã triển khai pháp môn Tối thượng thừa trong các kinh điển Đại thừa, tập trung nhất là Bát Nhã tâm kinh,  Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh 大方廣佛華嚴經, Thành duy thức luận 成唯識論 , Kim cang bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh  金剛般若波羅密多經 … Và chúng ta có thể kết luận :

Tâm là tánh không, là thông tin. Tâm không có thực thể nên nó siêu việt không gian, thời gian, số lượng. Tam giới, tất cả vũ trụ vạn vật đều là do tâm tạo, tâm tưởng tượng ra nên có thể nói vạn pháp đều không có thực thể, không có thật, nhưng cũng không phải là hư không trống rỗng không có gì cả.

Thông tin có thể biến thành năng lượng và vật chất

Trong thế kỷ 20 các nhà khoa học đã chứng minh vật chất và năng lượng có thể chuyển hóa cho nhau theo công thức nổi tiếng của Albert Einstein.

E= mc2 [E : năng lượng (energy), m : khối lượng (masse), c : vận tốc ánh sáng, là một hằng số (constant)].

Trong thế kỷ 21 có thể các nhà khoa học sẽ chứng minh được vật chất, năng lượng và thông tin có thể chuyển hóa cho nhau, nghĩa là thông tin có thể biến thành vật chất hay năng lượng.   

Dựa vào cơ sở nào để tin rằng vật chất có thể biến thành thông tin hay ngược lại ?      

Một hạt cơ bản của vật chất chẳng hạn hạt electron hay hạt photon, chúng là vật chất có đặc trưng đặc điểm như vị trí trong không gian, khối lượng, điện tích, độ xoay (spin). Nhưng chúng có thể hiện hữu ở hai hình thái rất khác nhau :

-Hình thái hạt có đặc trưng như nói trên

-Hình thái sóng không có sẵn bất cứ đặc trưng nào như nói trên. Đặc trưng chỉ xuất hiện khi có người quan sát (được chứng tỏ qua thí nghiệm 2 khe hở – double slit experiment)

Như vậy đặc trưng chính là thông tin mà người quan sát gán ghép vào sóng hay con số khiến cho sóng biến thành hạt hoặc con số biến thành thông tin. Hiện tượng này khoa học gọi là sự sụp đổ chức năng của sóng (the collapse of the wave function).   

Các nhà khoa học duy vật không hiểu được hiện tượng này, họ chỉ giải thích loanh quanh mà không tin rằng chính sóng não của người quan sát hay sóng của thiết bị cảm biến có chức năng nhận thức tương tự như sóng não chính là nguyên nhân làm sụp đổ chức năng sóng, khiến cho sóng biến thành hạt.

Sự sụp đổ chức năng sóng chính là cơ chế tạo thiên lập địa, chính là vụ nổ big bang tạo ra vũ trụ vạn vật.

Chúng ta có thể diễn tả sự sáng thế (sáng tạo vũ trụ thế giới) như sau :

Khi chưa có con người với ngũ uẩn thì không có vũ trụ vạn vật gì cả, bởi vì trời đất là không có thật, không gian thời gian số lượng, cái gì cũng chưa có. Tâm thì có tất cả mọi thông tin vô định chưa có đặc trưng. Nhưng tâm có khả năng giác ngộ, hiểu biết thong suốt và mọi khả năng tưởng tượng như là Thượng đế, nên nó tạo mọi điều kiện để các thông tin trong Tàng thức (A-lại-da thức) tạo ra pháp giới, thiên hà, thái dương hệ, hành tinh, địa cầu, rồi các loài sinh vật trong đó có con người, nhưng tất cả đều là ở dạng tiềm thể chưa hiện hữu (dạng sóng). Đến khi có con người có ngũ uẩn rồi thì tiềm thể đó ở dạng sóng mới sụp đổ thành hạt, thành vật chất và hiển hiện thành vũ trụ vạn vật như chúng ta thấy hiện nay.

Nhiều nhà khoa học chẳng hạn Craig Hogan nghi ngờ rằng vũ trụ có bản chất là thông tin, cũng có nghĩa vũ trụ là số (digital universe).

Craig Hogan

Vài thông tin về vũ trụ giả lập  

Ngày nay có một số thông tin về vũ trụ giả lập. Nghĩa là vũ trụ có khả năng được giả lập bởi một loài người thông minh cực kỳ tiến bộ nào đó.    

Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì con người bắt đầu nghi ngờ về chính thế giới chúng ta đang sống, họ ngờ rằng đó không phải là một thế giới tự nhiên có thật. Khi mà nhiều nghiên cứu về vật lý vi mô và vĩ mô mới đã phủ nhận các lý thuyết cũ. Kết quả của các nghiên cứu mới về vật lý lượng tử đang làm lung lay niềm tin của chúng ta một cách căn bản về vũ trụ vạn vật. Bằng chứng chứng minh thế giới chúng ta đang sống là ảo ngày càng nhiều. Tờ French Tribune đưa tin các chuyên gia của Đại học Washington (Mỹ) nghiên cứu khả năng tạo lập thế giới này, và thậm chí cả vũ trụ, đó có thể là sự tưởng tượng của một trí thông minh nhân tạo cấp cao.

Morgada nói “mọi thứ chúng ta nhìn thấy là một ảo ảnh do bộ não chúng ta tạo ra. Tuy nhiên, đây là một ảo ảnh thực sự có chức năng giúp chúng ta thích nghi với thế giới.”Ngay cả tình yêu cũng là một ảo ảnh. Nó là ảo ảnh do các phân tử của bộ não chúng ta tạo ra”.

Hồi năm 2001, Nick Bostrom – một giáo sư giảng dạy tại trường Đại học Oxford danh tiếng, đã công bố nghiên cứu của mình về giả thuyết các hậu duệ, con cháu đời sau của chúng ta sử dụng siêu máy tính cực mạnh để chạy một giả lập chi tiết với quy mô tương đương thế giới hiện tại để tìm hiểu về tổ tiên của mình.

Nick Bostrom – cha đẻ của vũ trụ giả lập

Bostrom cho biết, cỗ máy siêu việt này sẽ có khả năng thực hiện 1042 phép tính chỉ trong vỏn vẹn có 1 giây, và nó có thể tạo ra toàn bộ lịch sử loài người (bao gồm cả những suy nghĩ, cảm xúc và ký ức của chúng ta) bằng cách sử dụng chưa đến 1/1.000.000 sức mạnh xử lý của nó.

Dựa trên lập luận này, toàn bộ con người cũng như các thực thể khác trong vũ trụ chỉ là những dòng dữ liệu được lưu trên ổ cứng của một super computer khổng lồ. Vị giáo sư này cũng đưa ra kết luận rằng: “Gần như chắc chắn rằng chúng ta chỉ là những nhân vật sống trong một trình giả lập máy tính.”

15 năm sau, Elon Musk – nhà sáng lập của Tesla và SpaceX, đồng thời được mệnh danh là Iron Man (Người Sắt) đời thực với bộ óc thiên tài và trí thông minh vượt trội, cũng tỏ ra đồng tình với quan điểm của Bostrom. Tại hội thảo Recode diễn ra vào năm 2016, Musk đã đưa ra một nhận định đáng chú ý: nếu tính theo tỷ lệ, khả năng mà chúng ta không sống trong một thế giới mô phỏng chiếm tỷ lệ rất nhỏ, 1 trên hàng tỷ. Điều đó có thể hiểu rằng Elon Musk khá chắc chắn rằng chúng ta đang sống trong một trình giả lập.

Cho đến nay, bộ mô phỏng Uchuu là phiên bản mô phỏng lớn nhất và chi tiết nhất từng được tạo ra cho Vũ trụ. Nó chứa đến 2,1 nghìn tỷ “hạt” trong một không gian trải dài 9,6 tỷ năm ánh sáng. Bản mô phỏng này giả lập sự tiến hóa của Vũ trụ kéo dài trong suốt 13 tỷ năm qua. Nó không tập trung vào sự hình thành của các ngôi sao và các hành tinh, thay vào đó hướng tới các hành vi của vật chất tối bên trong sự mở rộng của Vũ trụ.

Mức độ chi tiết của Uchuu đủ lớn để nhóm có thể xác định mọi thứ, từ các cụm thiên hà cho đến các quầng vật chất tối bao quanh những thiên hà riêng lẻ. Do vật chất tối tạo nên phần lớn vật chất trong Vũ trụ, nó là động lực chính cho việc hình thành thiên hà và cụm thiên hà.

Để tạo ra một bản mô phỏng chi tiết đến như vậy, cần đến một sức mạnh tính toán và khả năng lưu trữ khổng lồ. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng hơn 40.000 nhân máy tính và 20 triệu giờ tính toán để tạo ra phiên bản mô phỏng của mình. Tổng cộng nó ngốn đến hơn 3 Petabyte dữ liệu, tương đương 3 triệu GB.

Tuy nhiên, nhờ sử dụng một giải pháp nén siêu mạnh, nhóm nghiên cứu có thể nén khối dữ liệu này xuống chỉ còn khoảng 100 TB, tương đương 100.000 GB bộ nhớ lưu trữ. Ổ đĩa Exadrive của hãng Nimbus là bộ nhớ thể rắn dạng 3,5 inch tiêu chuẩn, nhưng có dung lượng đến 100 TB. Tuy vậy ổ đĩa này có giá đến 40.000 USD (gần 1 tỷ đồng vn). Nhóm Uchuu lưu trữ dữ liệu thô của mình trên trang skiesanduniverses.org,  vì vậy bạn có thể khám phá vũ trụ ảo đó khi nào bạn muốn.   

Kết luận

Giới khoa học thì nghĩ rằng có thể vũ trụ mà chúng ta đang sống được giả lập bởi một loài người thông minh cực kỳ tiến bộ nào đó. Tôi nêu ra lập luận này chỉ để nói rằng nhiều nhà khoa học hiện đại nghĩ rằng thông tin là nền tảng của vũ trụ vạn vật. Điều đó có nghĩa rằng vật chất, năng lượng cũng chỉ là thông tin thôi, chỉ khác nhau ở chỗ vật chất và năng lượng cần một số lượng thông tin cực kỳ lớn so với hình ảnh, âm thanh và video mà chúng ta đã quen thuộc hiện nay.

Còn Phật giáo thì cũng đồng tình với khoa học ở điểm vũ trụ là thông tin (Phật giáo nói là Vạn pháp duy thức- thức chính là thông tin). Nhưng PG không nói vũ trụ là do một loài người thông minh giả lập ra, mà nói rằng vũ trụ là do tâm tạo (Nhất thiết duy tâm tạo). Tâm bản nguyên của chúng sinh gọi là vô sinh pháp nhẫn, tâm đó có tánh giác ngộ, cái gì nó cũng biết, nó có năng lực vô biên, nên nó có khả năng tạo ra tất cả mọi loại cảnh giới tùy thuộc cái niệm của chúng sinh. Chúng sinh có niệm thiện thì tâm tạo ra cảnh giới thiện chẳng hạn cõi giới Tây phương cực lạc do Phật A Di Đà thống lĩnh dành cho chúng sinh tu Tịnh Độ hướng tới một cõi giới an lành. Tâm càng kiên trì bao nhiêu thì cảnh giới càng vững chắc bền bĩ bấy nhiêu. Chúng sinh có niệm ác chẳng hạn sát sinh hại vật để ăn thịt hay hại người để có lợi cho mình, thì tâm tạo ra cảnh giới ác, chẳng hạn cõi giới địa ngục, ngạ quỷ. Những cảnh giới ác không phải ở đâu xa, ngay trên thế gian cũng có, chẳng hạn cảnh thiên tai, bão lụt, núi lửa, động đất, sóng thần; cảnh chiến tranh  hay bạo loạn do con người gây ra, chiến tranh Nga-Ukraina hiện nay là một ví dụ. Rồi cảnh tai nạn như máy bay rơi, tàu chìm, xe đụng, hỏa hoạn v.v…Những cảnh giới ác đó không phải tự nhiên có, mà nó do niệm ác và hành vi ác của chúng sinh tạo ra. Những cảnh giới thiện hay ác xuất hiện theo quy luật nhân quả. Làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ. Tuy nhiên bản chất của thiện ác cũng không phải là hai mà là do tâm của chúng sinh gán ghép cho là thiện, cho là ác. Chính là vì thiện ác cũng chỉ là chủ quan của chúng sinh, do đó thiện có thể biến thành ác và ngược lại.

Trường hợp thiện biến thành ác điển hình nhất mà chúng ta mới thấy gần đây. Đó là bà mẹ của hung thủ Yamagami Tetsuya là người đã bắn chết cựu thủ tướng Nhật bản Shinzo Abe, bà mẹ này là người chuyên tâm làm từ thiện, đã quyên góp cho tổ chức từ thiện có nguồn gốc Hàn Quốc, đó là Giáo hội thống nhất (Unification Church) một số tiền lớn là 720.000 USD khiến cho gia đình khánh kiệt, con cái phải sống vất vả khó khăn. Tetsuya cho rằng ông Abe ủng hộ Giáo hội này. Ban đầu anh ta định ám sát lãnh đạo giáo hội tại Nhật Bản. Nhưng trong cuộc vận động tranh cử cho một ứng viên của Đảng Dân chủ tự do (LDP) ở thành phố Nara, thủ phủ của tỉnh Nara, phía tây Nhật Bản, Tessuya chỉ gặp ông Abe lúc đó đang phát biểu trước công chúng nên hạ sát ông luôn. Như vậy một người theo đuổi ý tưởng về từ thiện đã dẫn đến kết quả ác là một người khác phải chết.

Còn trường hợp ác biến thành thiện, chẳng hạn cuộc chiến tranh VN do Đảng Cộng sản VN tiến hành kéo dài 15 năm (1960-1975). Chiến tranh khiến đất nước nhà cửa tan hoang, cả triệu người phải chết, rõ ràng chiến tranh là việc ác. Nhưng kết quả là thiện, đất nước thống nhất, nhân dân VN hiện nay đang được hưởng hòa bình, độc lập, kinh tế phát triển, nhân dân no ấm.

Chính vì vậy mới có Trung Quán Luận của Long Thọ Bồ Tát. Trung Quán tránh biên kiến tức không nghiêng về một bên, dù là thiện hay ác cũng đều là tà đạo, bất năng kiến Như Lai. Nên hành giả phải giữ trung đạo và tùy duyên. Trung đạo tức là vô sở trụ mà kinh Kim Cang đề cập. 

Trong thế giới ngày nay thì bậc thức giả phải thấy rằng chế độ dân chủ tự do hay chế độ độc tài toàn trị đều là tà đạo, không thể ngã theo hoàn toàn được mà phải biết trung đạo và tùy duyên. Trung đạo cũng không phải ở ngay chính giữa mà trung đạo chính là vô sở trụ nên cũng không phải dễ xác định được. Hành giả phải câu thông (kết nối thông suốt) được với bản tâm bất nhị thì mới tránh được tà kiến và không rơi vào tà đạo thì mới sống với bình thường tâm thị đạo được. 

Tóm lại tánh không không phải là trống rỗng không có gì mà chỉ là cái không không có thực thể. Tánh không chính là tâm vô lượng bất biến bất nhị, vô phân biệt. Cái tâm đó có tánh giác ngộ, tánh biết, nên nó có khả năng vô biên không hạn chế có thể tưởng tượng ra mọi thứ từ vũ trụ vạn vật cho tới con người. Tánh không có vô lượng thông tin vô định hình, có thể hình dung là vô lượng vô biên con số chưa được gán ghép đặc trưng. Mỗi chúng sinh tùy theo nghiệp hay tập khí của mình mà gán ghép đặc trưng cho những con số hay sóng đó (tạo ra hiện tượng sụp đổ chức năng sóng, khiến cho sóng biến thành hạt vật chất và cũng từ đó mà tạo ra cảnh giới và số phận của chính mình.  

Truyền Bình

Đăng tải tại Bài viết | Bình luận về bài viết này